Thứ Hai, 29 tháng 12, 2008

QUAN NIỆM VỀ PHÂN CÔNG QUYỀN LỰC

QUAN NIỆM VỀ PHÂN CÔNG QUYỀN LỰC
VÀ CHỨC NĂNG TÀI PHÁN HÀNH CHÍNH
GS.TS. NGUYỄN DUY GIA
Giám đốc Học viện Hành chính Quốc gia


I. Quyền lực nhà nước là một dạng quyền lực đặc biệt - quyền lực chính trị của một quốc gia, gắn bó chặt chẽ với ý chí của đảng cầm quyền và nguyện vọng, lợi ích của toàn xã hội, của quốc gia, dân tộc. Trong chính cương xây dựng đất nước ta, quyền lực chính trị là thống nhất, không phân chia. Hay nói cách khác, giai cấp cầm quyền không phân chia quyền lực. Nó có thể thoả hiệp, tính toán tới nhu cầu, ý muốn của các tầng lớp, giai cấp khác trong những hoàn cảnh lịch sử cụ thể, ở nước ta, về cơ bản là thống nhất. Nhưng mọi sự đáp ứng ấy bao giờ cũng trên cơ sở ý chí, định hướng lâu dài của chính bản thân nó.
1- Đặt vấn đề phân công quyền lực không nhằm trả lời câu hỏi quyền lực thuộc về ai, mà hướng tới việc tổ chức quyền lực thống nhất ấy như thế nào để đạt được mục đích chính trị của giai cấp cầm quyền, của quyền lực nhà nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
2- Lịch sử phân công quyền lực xã hội, nhất là quyền lực nhà nước là quá trình phức tạp. Nhưng tựu trung, quyền lực được tổ chức theo hai phương hướng cơ bản: độc quyền và dân chủ. Cách tổ chức quyền lực độc quyền làm cho quyền lực đó tập trung vào trong tay một người hoặc một nhóm người, một tổ chức nhất định. Còn cách tổ chức quyền lực dân chủ là có sự phân công quyền lực, hay nói cách khác là phân công lao động trong tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước.
Trong chế độ dân chủ tư sản, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc phân lập các quyền. Các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp phân tách, đối trọng, kiềm chế, khống chế và ngăn cản lẫn nhau. Sự phân lập đó luôn nhằm đạt tới thực hiện ý chí của giai cấp tư sản cầm quyền và bằng mọi cách xếp đặt để quyền lực chính trị không thể phân chia.
Trong chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa ở nước ta, quyền lực nhà nước được phân công trên cơ sở quyền lực nhà nước là thống nhất. Mô hình về sự phân công ngày được phát triển từ mô hình Công xã Pari đến Nhà nước Xô Viết, từ mô hình Xô Viết ở Liên Xô đến các nước làm cách mạng dân chủ nhân dân tiến lên xã hội chủ nghĩa. Ở nước ta, bắt đầu từ Tuyên ngôn độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh ngày 2.9.1945. Lý thuyết về sự phân công quyền lực đó được Các Mác, V.I. Lênin khẳng định trong các tác phẩm lý luận và trong thực tiễn tổ chức Nhà nước xã hội chủ nghĩa của nước ta.
3- Ở nước ta, quyền lực nhà nước được tổ chức theo nguyên tắc thống nhất, không phân chia nhưng có sự phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Quan điẻm về phân công quyền lực nhà nước được ghi nhận trong các văn kiện chính trị của Đảng, trong Hiến pháp và các luật tổ chức bộ máy nhà nước. Quá trình hình thành và phát triển, việc tổ chức quyền lực của Nhà nước ta nhất quán theo quan điểm trên.
a- Hiến pháp năm 1946, thiết chế mô hình tổ chức quyền lực theo quan điểm phân công rõ ràng các quyền trong quyền lực nhà nước thống nhất. Nghị viện nhân dân – cơ quan cao nhất của đất nước, duy nhất có quyền lập pháp. Chính phủ, đứng đầu là Chủ tịch nước và nội các, điều hành cùng với hệ thống chính quyền địa phương thực hiện quyền hành pháp. Toà án được tổ chức theo cấp xét xử - khâu trọng yếu của quyền tư pháp.
b- Hiến pháp năm 1959 và năm 1980, kế thừa và hoàn thiện cơ cheế của Hiến pháp năm 1956 trong điều kiện mới của cách mạng nước ta. Ví trí của cơ quan quyền lực nhà nước (Quốc hội và Hội đồng nhân dân) được nâng cao; hệ thống hành chính nhà nước, đứng đầu là Chính phủ được tăng cường; các cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân), thực hiện chức năng xét xử và kiểm sát, được hoàn thiện để bảo đảm tốt hơn chức năng bảo vệ pháp luật.
c- Hiến pháp năm 1992 củng cố quan điểm về phân công quyền lực nhà nước trong điều kiện đổi mới. Chức năng lập pháp của Quốc hội được nhấn mạnh. Khả năng hành pháp của Chính phủ và hệ thống hành chính nhà nước được khẳng định rõ rệt và đẩy mạnh. Quyền xét xử, công tố và kiểm sát chung của các cơ quan Toà án, Kiểm sát và các cơ quan hỗ trợ tư pháp được hoàn thiện một bước quan trọng.
II. Nội dung của quan điểm phân công rành mạch các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp trong cơ chế quyền lực nhà nước thống nhất cần được phân tích một cách sâu sắc và quán triệt vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
1- Quyền lập pháp được tập trung cao vào cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Nội dung của hoạt động lập pháp là ban hành các quy phạm pháp luật dưới hình thức văn bản pháp luật, bao gồm văn bản pháp luật (lập pháp) và văn bản dưới luật (lập quy). Do vậy, Quốc hội nắm toàn quyền ra các văn bản luật (Hiến pháp, đạo luật, bộ luật). Đây là hoạt động chủ yếu, quan trọng nhất của hoạt động làm luật. Nhưng pháp luật không chỉ có các quy phạm pháp luật, mà còn là những quy phạm pháp quy. Vì thế, phải phân định rõ hoạt động lập pháp và uỷ quyền lập pháp dưới dạng lập quy.
2- Hoạt động uỷ quyền lập pháp (lập quy), theo quy định hiện hành do Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ cùng hệ thống hành chính nhà nước thực hiện. Phân định không có nghĩa là phủ định quyền lập quy mà là quy định phạm vi, mức độ và thẩm quyền lập quy cho các cơ quan nhà nước như thế nào là hợp lý nhất. Từ đó đòi hỏi phải phân biệt giữa luật với pháp lệnh, luật và pháp lệnh với nghị định, giữa các văn bản pháp quy trong hệ thống hành chính nhà nước. Đồng thời, phải xác định quyền lập quy trong hệ thống hành chính nhà nước, quyền lập quy dừng lại ở cấp nào và quyền hạn của từng cơ quan có thểm quyền lập quy đến đâu.
3- Quyền hành pháp là quyền chấp hành pháp luật và điều hành xã hội theo pháp luật nhằm tổ chức đời sống xã hội và Nhà nước phù hợp với chính sách và nguyện vọng của nhân dân.
Theo pháp luật hiện hành, quyền hành pháp ở nước ta được tập trung chủ yếu vào hệ thống hành chính nhà nước. Hệ thống cơ quan hành chính nhà nước ta có những đặc điểm cơ bản sau:
- Các cơ quan hành chính nhà nước đều do cơ quan quyền lực nhà nước - Quốc hội và Hội đồng nhân dân hoặc các cơ quan hành chính nhà nước cấp trên lập ra. Điều này là yếu tố quan trọng để bảo đảm tính thống nhất của quyền lực.
- Các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền ban hành các văn bản quy phạm pháp luật (lập quy) và các văn bản cá biệt cụ thể (điều hành trực tiếp); có quyền kiểm tra việc thực hiện văn bản và quyền xử lý khi có vi phạm luật, cưỡng chế khi có sự lẩn tránh hoặc cố tình không thực hiện quyết định hành chính, kiến nghị các biện pháp tư pháp khác.
- Các cơ quan hành chính tạo thành một hệ thống thống nhất, tập trung, thứ bậc.
Như vậy, hệ thống hành chính nhà nước khi thực hiện hoạt động chấp hành và điều hành có quyền xử lý vi phạm pháp luật, xem xét và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính làm phương hại tới lợi ích hợp pháp của họ.
Nếu đứng từ góc độ trình tự hoạt động thì chức năng trên có tính chất của hoạt động tài p hán, nhưng là “tài phán” theo thủ tục hành chính.
4- Quyền tư pháp chủ yếu được thực hiện bằng hoạt động xét xử, công tố và các hoạt động bổ trợ tư pháp như điều tra, công chứng, luật sư… Các chức năng trên được thực hiện bởi Toà án, Kiểm sát và các cơ quan khác của Nhà nước theo trật tự tố tụng tư pháp. Như thế, khâu trọng tâm của quyền tư pháp là xét xử của Toà án, mọi hoạt động tư pháp khác, kể cả công tố của Viện kiểm sát đều nhằm đạt được việc xét xử công minh, đúng pháp luật để bảo vệ quyền chủ thể, lợi ích hợp pháp và trật tự pháp luật trong xã hội.
Sự phân công rành mạch các quyền chính là việc xác định, phân bổ, khẳng định rõ ràng thẩm quyền cho các cơ quan nhà nước trong thực hiện các quyền. Để làm được điều đó, cần thống nhất quan niệm phân công, phân cấp quyền lực là: mỗi cơ quan nhà nước, mỗi đơn vị hành chính nhà nước được pháp luật quy dịnh các quyền riêng (quyền mà chỉ có cơ quan đó được thực hiện), các quyền được làm nhưng phải có sự phê chuẩn của một cơ quan, một cấp có thẩm quyền (quyền bị cấm đoán). Chính nguyên tắc này bảo đảm cho quyền lực tập trung, thống nhất, đan xem, phối hợp, hợp tác trong thực hiện quyền lực nhà nước.
5- Nguyên tắc phân công, phân cấp thẩm quyền trên bảo đảm mỗi cơ quan nhà nước có một địa vị pháp lý nhất định trong thực hiện các quyền, không một cơ quan nhà nước nào có thể thực hiện trọn vẹn một trong ba quyền của quyền lực nhà nước. Quốc hội duy nhất lập hiến, lập pháp và là cơ quan giám sát tối cao, có nghĩa là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất, toàn quyền thông qua các Hiến p háp, luật và sửa đổi chúng. Thông qua luật là khâu quyết định.
Tuy nhiên, hoạt động lập pháp còn được thực hiện bởi quyền tham gia lập pháp: quyền sáng kiến về luật và quyền trình dự án luật. Quyền tham gia lập pháp chứa đựng nhiều công đoạn có tính kỹ thuật lập pháp, nhưng cũng có nhiều công việc có tính quyền lực, được quy định trong thẩm quyền của các cơ quan hữu quan.
Tương tự như vậy, quyền hành pháp và quyền tư pháp được các cơ quan nhà nước nhất định thực hiện chủ yếu; đồng thời, pháp luật cũng quy định một số quyền hạn cụ thể cho một số cơ quan nhà nước hực thi quyền hành pháp và tư pháp. Ví dụ: quyền phê chuẩn ngân sách và quyết toán ngân sách của Quốc hội có nội dung thuộc quyền hành pháp; quyền phê chuẩn án tử hình của Chủ tịch nước; quyền xử phạt hành chính tại phiên toà được trao cho Thẩm phán chủ toạ phiên toà…
III. Tài phán tư pháp là hoạt động xét xử, phán quyết về tội phạm, vi phạm pháp luật và tranh chấp trong đời sống dân sự theo trật tự tố tụng thuộc quyền tư pháp.
1- Tài phán hành chính là nhân danh Nhà nước, sử dụng quyền lực nhà nước ra các quyết định có tính chất cưỡng bức buộc các cá nhân, tổ chức vi phạm pháp luật và tranh chấp quyền và nghĩa vụ chủ thể tuân theo ý chí Nhà nước để bảo vệ pháp luật và trật tự xã hội. Vì vậy, suy cho cùng, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực thi quyền tư pháp đều có đích cuối cùng là bảo đảm hoạt động tài phán đúng đắn, có hiệu lực, hiệu quả.
2- Hoạt động tài phán ở nước ta hiện nay được các Toà án nhân dân thực hiện. Toà án thẩm quyền ra các bản án hình sự, bản án giải quyết các tranh chấp dân sự và tranh chấp hợp đồng kinh tế, tuyên bố pháp sản doanh nghiệp. Từ góc độ đối tượng xét xử, có thể dễ dàng nhận thấy đó là tài phán của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các cá nhân công dân hoặc tổ chức công dân. Nói gọn lại, đó là tài phán nhà nước dối với dân.
3- Thực tiễn còn cho thấy, không chỉ dân, mà cả các cơ quan nhà nước, viên chức nhà nước, nhất là viên chức lãnh đạo, cũng vi phạm pháp luật, tranh chấp trong thực hiện thẩm quyền. Thông thường, các cơ quan nhà nước có các vi phạm pháp luật sau:
- Ra các quyết định trái với Hiến pháp, pháp luật và văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên (hành vi vi luật).
- Ra các quyết định không thuộc thẩm quyền hoặc thực hiện hành vi ngoài khuôn khổ trao cho trong một quyết định (hành vi vi quyền).
- Ra các quyết định hoặc thực hiện hành vi không có lý do hoặc lý do không xác đáng (hành vi không căn cứ vào văn bản nhà nước, không phù hợp, sai trái).
Các quyết định và hành vi kê trên có thể có các hướng tác động tiêu cực sau:
- Làm sai lệch quyền lực, hạn chế hiệu lực, hiệu quả thực hiện quyền lực nhà nước.
- Làm phương hại tới tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân công dân hoặc tổ chức của nhân dân.
Pháp luật Nhà nước ta có quy định về xử lý các hiện tượng kể trên bằng các hình thức:
- Khi thực hiện giám sát, thanh tra, kiểm tra, kiểm sát, các cơ quan nhà nước có thể sử dụng quyền hạn đình chỉ hoặc bãi bỏ các quyết định trái với pháp luật và sai trái.
- Công dân thực hiện quyền khiếu nại, tố cáo các hành vi vi phạm pháp luật của cơ quan, viên chức nhà nước.
Các hình thức xử lý trên được thực hiện bằng quan hệ quyền lực phục tùng theo thủ tục hành chính.
4- Kinh nghiệm của nhiều nước cũng như thực tiễn thực hiện quyền lực của Nhà nước ta đòi hỏi phải đổi mới phương thức xử lý bằng hoạt động lập pháp, lập quy và tài phán hành chính theo thủ tục tố tụng tư pháp. Hay nói cách khác, cần có tài phán nhà nước đối với các quyết định hoặc hành vi của cơ quan, viên chức nhà nước trái Hiến pháp, pháp luật và gây thiệt hại đến lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thực chất, tài phán nhà nước đối với các cơ quan, viên chức nhà nước trong thực hiện thẩm quyền là đưa các cơ quan, viên chức trở thành một bên trong quan hệ tố tụng trước Toà án. Trong đó, tài phán hành chính là hoạt động xét xử theo thủ tục tố tụng tư pháp đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính, gây thiệt hại trực tiếp tới dự do, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
Thực chất, tài phán nhà nước đối với các cơ quan, viên chức nhà nước trong thực hiện thẩm quyền là đưa các cơ quan, viên chức trở thành một bên trong quan hệ tố tụng trước Toà án. Trong đó, tài phán hành chính là hoạt động xét xử theo thủ tục tố tụng tư pháp đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính, gây thiệt hại tới tự do, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức.
5- Tài phán hành chính cần được phân biệt với tài phán tư pháp, bởi các đặc trưng khác biệt, đó là tài phán nhà nước đối với cơ quan, viên chức hành chính nhà nước trong thực hiện quyền hành pháp; là tài phán tư pháp nhưng không thể áp dụng biện pháp thi hành án bằng quyền lực nhà nước đối với quyền lực nhà nước, kể cả đối với các trường hợp viên chức, cơ quan hành chính, mặc dù không có cấu thành “lỗi” hành chính, nhưng gây thiệt hại tới lợi ích hợp pháp của công dân, buộc phải bồi thường cho công dân. Mặc dù, bồi thường hành chính có những nét tương tự như bồi thường dân sự, nhưng là đền bù từ phía cơ quan, cá nhân có thẩm quyền nhà nước trong thực thi công vụ.
6- Vì những lý do trên, tài phán hành chính (tài phán nhà nước đối với hành chính) cần được tổ chức thành những cơ quan độc lập với tài phán tư pháp (tài phán nhà nước đối với dân); cơ quan hành pháp có trách nhiệm trong việc thi hành các quyết định của cơ quan tài phán hành chính về việc buộc cơ quan, viên chức nhà nước bồi thường công dân và phải chịu trách nhiệm liên đới về bồi thường vật chất cho công dân khi các cơ quan, viên chức nhà nước không có “lỗi” hành chính mà vẫn gây thiệt hại với quyền lợi hợp pháp của công dân.
Tóm lại, từ quan niệm phân công quyền lực thì tài phán hành chính là hoạt động cần phân biệt với quản lý hành chính nhà nước (hay gọi là hành chính quản lý) và với tài phán tư pháp, được tổ chức phù hợp với nhu cầu, điều kiện thực tiễn của xã hội nhằm bảo vệ lợi ích hợp pháp của công dân trước sự xâm hại của cơ quan, công chức nhà nước trong khi thi hành công vụ, thực hiện hoạt động phán quyết theo trật tự tố tụng tư pháp, bảo đảm tính độc lập và chỉ tuân theo pháp luật của Thẩm phán trong xét xử. Nó có nghĩa vụ bảo vệ công dân và bảo đảm cho nền hành chính thực thi công vụ trong khuôn khổ pháp luật nhằm hoàn thiện Nhà nước dân chủ, phục vụ nhân dân ngày càng tốt hơn.



Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2008

Vị trí, vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong đời sống thực tiễn

Vị trí, vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong đời sống thực tiễn
03.10.2006
Ths. Lê Vương Long
1. Vị trí quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong đời sống thực tiễn
Vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật có ý nghĩa rất quan trọng. Do cơ chế điều chỉnh pháp luật có nhiều yếu tố đ­ược hình thành ở nhiều giai đoạn nên sự tương tác của quan hệ pháp luật với các yếu tố khác cũng nh­ư vai trò của quan hệ pháp luật ở các giai đoạn có những đặc điểm riêng biệt.
Trước hết, muốn điều chỉnh pháp luật, Nhà nước cần đ­ưa ra các quy phạm pháp luật để mô hình hoá hành vi của chủ thể. Các quy phạm pháp luật đó cần đ­ược hiện thực hoá bằng hành vi của chủ thể thông qua quan hệ pháp luật cụ thể. Như­ vậy, trong mối quan hệ giữa quy phạm pháp luật với hành vi thực tế của chủ thể, quan hệ pháp luật là khâu trung gian, là cầu nối giữa hai yếu tố đó với nhau. Nhờ thông qua quan hệ pháp luật mà các mô thức hành vi đư­ợc xây dựng trong quy phạm có điều kiện chuyển hoá thành quyền và nghĩa vụ pháp lí thực tế của chủ thể gắn với điều kiện, dự liệu đã nêu ở phần giả định. Nh­ư vậy, ở khả năng này, quy phạm pháp luật được chủ thể nhận thức trực tiếp và thực hiện thông qua quan hệ pháp luật.
Cũng có ý kiến cho rằng trong một số trường hợp, giữa quy phạm pháp luật với quan hệ pháp luật cần có văn bản áp dụng pháp luật làm khâu trung gian. Chẳng hạn, trường hợp Nhà n­ước xác nhận sự kiện nào đó là căn cứ để phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quan hệ pháp luật cụ thể thì văn bản áp dụng pháp luật đó đóng vai trò trung gian giữa quy phạm pháp luật với quan hệ pháp luật. ở đây, văn bản áp dụng pháp luật đư­ợc ban hành không làm nhiệm vụ cá biệt hoá quyền, nghĩa vụ đối với chủ thể mà làm nhiệm vụ xác nhận sự kiện thực tế có ý nghĩa pháp lí làm căn cứ phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể. Đương nhiên hoạt động áp dụng pháp luật đó lại làm xuất hiện quan hệ pháp luật cụ thể khác. Tuy nhiên, ý kiến trên không phải hoàn toàn được thống nhất khi không ít người cho rằng văn bản xuất hiện giữa quy phạm pháp luật với quan hệ pháp luật phải là văn bản cá biệt mới mang tính chính xác và toàn diện hơn.(1) Mặt khác, văn bản đó cũng có thể làm nhiệm vụ cá biệt hoá quyền, nghĩa vụ đối với chủ thể ngay cả khi nó không là văn bản áp dụng pháp luật. Chẳng hạn, pháp luật quy định về quyền thừa kế theo di chúc nhưng các bên thừa kế muốn thực hiện thừa kế thì cần xuất trình di chúc của người để lại tài sản. Vì vậy, nếu không xuất trình được di chúc và không thoả thuận được về việc phân chia tài sản thì quan hệ thừa kế đó phát sinh theo pháp luật. Việc văn bản cá biệt xuất hiện giữa quy phạm pháp luật với quan hệ pháp luật với tính chất trung gian cũng đúng với cả trường hợp chấm dứt một số loại quan hệ pháp luật trên thực tế. Ví dụ, pháp luật quy định về li hôn nhưng quan hệ pháp luật hôn nhân chỉ có thể chấm dứt nếu có đơn xin li hôn của vợ hoặc chồng và bản án của toà án có hiệu lực.
Ngoài ra, trong trư­ờng hợp chủ thể có vi phạm pháp luật, quan hệ pháp luật lại tiếp tục xuất hiện thông qua hoạt động cá biệt hoá chế tài pháp luật nhằm buộc chủ thể gánh chịu những biện pháp trừng phạt nhất định.
Việc xác định vị trí của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật sẽ chính xác và đầy đủ hơn nếu xem xét quan hệ pháp luật ở sự thống nhất giữa hình thức pháp lí với nội dung thực tế. Hiểu theo nghĩa này, vị trí của quan hệ pháp luật đ­ược lí giải như­ một mắt xích, một khâu giữa quy phạm pháp luật và quan hệ xã hội thực tế do quy phạm pháp luật điều chỉnh. Vị trí của quan hệ pháp luật bị quy định trư­ớc hết ở nội dung quan hệ xã hội thực tế đ­ược quy phạm pháp luật tư­ơng ứng điều chỉnh. Quan hệ xã hội lại rất đa dạng, từng loại quan hệ có đặc thù riêng vì vậy việc tạo nên vị trí của quan hệ pháp luật lại nằm ở chiều sâu của quan hệ xã hội. Bản thân tính chất của các quan hệ xã hội xác định khả năng chi tiết hóa ở mức độ lớn hay nhỏ trong dạng thức quan hệ pháp luật gì. Chẳng hạn những quan hệ về tố tụng đòi hỏi phải đư­ợc chi tiết hoá một cách đầy đủ hơn. Do các quan hệ thủ tục (quan hệ hình thức) đòi hỏi phải chính xác mới bảo đảm tính đúng đắn cho quan hệ nội dung nên việc pháp luật quy định cụ thể và chặt chẽ là hết sức cần thiết. Nh­ư vậy, trong một số lĩnh vực quan hệ pháp luật, việc điều chỉnh một cách chi tiết, tỉ mỉ đư­ợc quyết định bởi bản thân tính chất của các quan hệ xã hội cụ thể.
2. Vai trò của quan hệ pháp luật trong cơ chế điều chỉnh pháp luật và trong đời sống thực tiễn
Vai trò của quan hệ pháp luật thể hiện qua vị trí và sự t­ương tác với nhiều yếu tố khác trong cơ chế điều chỉnh pháp luật. Đ­ược nhận diện là hình thức đặc thù của quá trình thực hiện pháp luật, quan hệ pháp luật có những vai trò cơ bản sau:
a. Quan hệ pháp luật là yếu tố hiện thực hoá nội dung, yêu cầu của quá trình điều chỉnh pháp luật
Điều chỉnh pháp luật là quá trình Nhà nước sử dụng pháp luật để tác động vào hành vi của chủ thể theo những mục đích nhất định. Cơ chế điều chỉnh pháp luật không thể thiếu quan hệ pháp luật với tính cách là yếu tố hiện thực hoá nội dung, yêu cầu của quá trình điều chỉnh pháp luật. Việc ban hành quy phạm pháp luật để điều chỉnh quan hệ xã hội đã làm cho quan hệ xã hội mang tính pháp lí, nghĩa là tạo ra cho các bên tham gia quan hệ đó các quyền và nghĩa vụ pháp lí. Nội dung của quy phạm thể hiện rõ nội dung, yêu cầu và mục đích của quá trình điều chỉnh. Với tính cách là hình thức đặc thù của việc thực hiện quy phạm pháp luật, quan hệ pháp luật có vai trò làm cho nội dung quy phạm có tính thực tế. Thông qua hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ pháp lí của chủ thể quan hệ pháp luật, các quy định pháp luật đi vào đời sống hiện thực. Nh­ư vậy, trong đa số trư­ờng hợp nếu không thông qua quan hệ pháp luật thì nội dung quy phạm pháp luật không có điều kiện để hiện thực hoá bằng hành vi của chủ thể. Điều này có nghĩa là nội dung, yêu cầu đặt ra của quá trình điều chỉnh bằng pháp luật không có tính khả thi trong đời sống xã hội. Điều chỉnh pháp luật mới chỉ dừng lại ở mức tác động đến ý thức chủ thể mà thôi. Nhìn chung nội dung điều chỉnh pháp luật thể hiện ở ba khả năng: Cho phép, bắt buộc hoặc cấm đoán đối với chủ thể. Các mô thức hành vi đ­ược xây dựng trong quy phạm thể hiện ở ba khả năng đó không phải hoàn toàn và lúc nào cũng đặt ra nhu cầu đ­ược hiện thực hoá thông qua quan hệ pháp luật.
- Tr­ường hợp nội dung điều chỉnh pháp luật mang tính bắt buộc có thể diễn ra dư­ới hai khả năng: Hoặc là buộc chủ thể phải xác lập hành vi mới hoặc buộc hành vi đã thiết lập trong quan hệ pháp luật phải đảm bảo những yêu cầu nhất định. Đối với khả năng thứ nhất, chủ thể không được từ chối mà phải chủ động thực hiện bảo đảm tính hợp pháp cả về nội dung, hình thức vì đó là nghĩa vụ pháp lí. Việc thi hành pháp luật của chủ thể sẽ làm nảy sinh quan hệ pháp luật trên thực tế. Đối với khả năng thứ hai thì vai trò của quan hệ pháp luật đã đ­ược nhận diện, nghĩa là nội dung điều chỉnh pháp luật đã được hiện thực hoá thông qua quan hệ pháp luật. Như­ vậy đối với hai khả năng trên, quan hệ pháp luật có vai trò khác nhau một cách căn bản trong việc hiện thực hoá nội dung, yêu cầu điều chỉnh pháp luật.
- Tr­ường hợp nội dung điều chỉnh pháp luật cho phép: ở dạng này pháp luật không đặt ra yêu cầu bắt buộc, do đó chủ thể có thể thực hiện nội dung pháp luật cho phép hoặc không thực hiện. Nếu chủ thể từ chối quyền của mình thì quan hệ pháp luật cụ thể không xuất hiện. Như­ng nếu chủ thể thực hiện quyền đư­ợc pháp luật cho phép thì thường phải thông qua quan hệ pháp luật. Nhìn chung việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của chủ thể ở đây có thể xảy ra hai khả năng là bảo đảm tính hợp pháp hành vi hoặc là vi phạm pháp luật. Trường hợp vi phạm pháp luật thì quan hệ pháp luật lại phát sinh với vai trò cụ thể hoá chế tài pháp luật nhằm áp dụng biện pháp c­ưỡng chế nhất định đối với chủ thể vi phạm.
- Trư­ờng hợp nội dung điều chỉnh pháp luật mang tính cấm đoán: Điều chỉnh pháp luật ngoài khả năng cho phép, bắt buộc còn có dạng cấm đoán đối với chủ thể trong những điều kiện cụ thể. Chẳng hạn “Cha mẹ không đư­ợc phân biệt đối xử giữa các con, ng­ược đãi, hành hạ, xúc phạm con; không đư­ợc lạm dụng sức lao động của con ch­ưa thành niên; không đ­ược xúi giục, ép buộc con làm những việc trái pháp luật, trái đạo đức xã hội” (Điều 34 Luật hôn nhân và gia đình). Việc xây dựng quy phạm pháp luật không cho phép chủ thể tiến hành những hành vi nhất định để đảm bảo sự an toàn các quan hệ xã hội là cần thiết. Tuy nhiên, ở đây có hai ý kiến trái ngược nhau: ý kiến thứ nhất cho rằng trường hợp điều chỉnh này không đòi hỏi chủ thể thực hiện bằng hành vi nên không hình thành quan hệ pháp luật. Nội dung quy định pháp luật trở thành yêu cầu đối với chủ thể khi thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ pháp luật khác. ý kiến thứ hai lại khẳng định: Việc chủ thể không vi phạm các nội dung cấm đoán đó cũng là thực hiện pháp luật. Việc thực hiện này bằng hình thức không hành động hợp pháp.(2) Tr­ường hợp có vi phạm pháp luật thì quan hệ pháp luật mới đ­ược xuất hiện trong quá trình các cơ quan nhà n­ước có thẩm quyền giải quyết vi phạm đó. Thông qua quá trình xử lí vi phạm, quan hệ pháp luật đã gián tiếp hình thành chức năng, vai trò là đăng tải loại mô thức hành vi mà pháp luật cấm đoán đến với các chủ thể. Điều này đã đem lại sự hiểu biết pháp luật nhất định từ thực tế cho mọi chủ thể. Chính vì vậy, hoạt động xét xử l­ưu động của toà án ngoài mục đích giải quyết vụ việc cụ thể còn là hoạt động giáo dục pháp luật có tính thực tế và hiệu quả.
Bên cạnh việc hiện thực hoá nội dung quy phạm pháp luật bằng cách chuyển hoá mô thức hành vi chung thành mô thức cụ thể, quan hệ pháp luật còn chuyển hoá các yêu cầu đặt ra đối với chủ thể nhằm bảo đảm tính hợp pháp của hành vi và sự phù hợp giữa hành vi pháp luật với hành vi xã hội khác.
b. Quan hệ pháp luật có vai trò định hướng, hỗ trợ việc xác lập trật tự và bảo đảm cho sự vận động và phát triển của các quan hệ xã hội
Cơ chế điều chỉnh pháp luật không tồn tại ngoài cơ chế điều chỉnh xã hội. Trong quá trình tác động tới các quan hệ xã hội, các yếu tố của cơ chế điều chỉnh pháp luật cần tìm ra sự tư­ơng hợp với các phư­ơng tiện điều chỉnh khác nhằm nâng cao vai trò định hư­ớng các hoạt động xã hội.
Thông qua sự tồn tại, vận động của quan hệ pháp luật, các quan hệ xã hội khác cũng có thể đ­ược bảo vệ khỏi bị xâm hại và phát huy đ­ược giá trị xã hội đích thực của mình. Vì vậy, ghi nhận các nguyên tắc pháp lí cơ bản nhằm định hướng cho việc thiết lập các quan hệ pháp luật có vai trò tích cực là sự đòi hỏi quan trọng không chỉ bảo vệ chính hệ thống quan hệ pháp luật mà còn bảo vệ cả hệ thống quan hệ xã hội nói chung. Chẳng hạn: “Việc xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự phải bảo đảm giữ gìn bản sắc dân tộc, tôn trọng và phát huy phong tục, tập quán, truyền thống tốt đẹp, tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, mỗi người vì cộng đồng, cộng đồng vì mỗi người và các giá trị đạo đức cao đẹp của các dân tộc cùng sinh sống trên đất Việt Nam” (Điều 4 Luật hôn nhân và gia đình). Nhà nước cũng có thể đưa ra những cấm đoán đối với những hoạt động có khả năng trực tiếp làm nguy hại hệ thống quan hệ xã hội truyền thống. Ví dụ: “Cấm kinh doanh các ngành, nghề gây phư­ơng hại đến quốc phòng, an ninh, trật tự, an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hoá, đạo đức, thuần phong mĩ tục Việt Nam và sức khoẻ nhân dân...” (Điều 6 Luật doanh nghiệp).
Trong đời sống thực tiễn, các mô thức hành vi hợp pháp, tích cực có khả năng phổ biến hơn nếu đ­ược xã hội ghi nhận một cách tích cực về hiệu quả thực hiện quyền, nghĩa vụ từ quan hệ pháp luật cụ thể. Ng­ược lại, các mô thức hành vi bất hợp pháp có khả năng bị thu hẹp khi có nhiều ng­ười xa lánh, phản đối. Điều này đòi hỏi nội dung của điều chỉnh pháp luật không thể thiếu nội dung giáo dục nhận thức về các mô thức hành vi pháp luật (bao gồm cả hành vi hợp pháp và bất hợp pháp) trong thực tiễn. Chẳng hạn, việc xét xử lư­u động của toà án không chỉ nói lên tính nghiêm minh của pháp luật, tính quyền lực của Nhà nư­ớc mà còn hàm chứa ý nghĩa này. Mặt khác, trong các yếu tố kích thích sự hình thành và đảm bảo thực hiện các quan hệ pháp luật thì việc xây dựng những quy phạm chuẩn mực, có kĩ thuật cao, phù hợp với nhu cầu khách quan là rất quan trọng. Điều căn bản là tạo ra đư­ợc sự tương thích về các chuẩn mực xã hội - pháp luật để tạo ra sự t­ương hợp về nội dung giữa quan hệ xã hội và quan hệ pháp luật trong quá trình điều chỉnh. Sự hài hoà giữa mô thức hành vi pháp luật và mô thức hành vi xã hội chỉ có thể đạt đư­ợc khi có sự gắn bó tư­ơng hỗ giữa quy phạm pháp luật và các quy phạm xã hội khác. Chỉ có nh­ư vậy mới có thể nói tới vai trò tích cực của pháp luật, quan hệ pháp luật trong việc thúc đẩy quá trình phát triển của hệ thống quan hệ xã hội. Nhìn chung, ở đây chúng ta đang xem xét quan hệ pháp luật trong động thái tích cực, nghĩa là những quan hệ pháp luật hình thành, vận động một cách hợp pháp và có giá trị hữu ích. Thực tế cũng có những quan hệ pháp luật đ­ược hình thành như­ng do vi phạm quy định pháp luật về thủ tục, hình thức nên vai trò của nó chỉ đư­ợc thừa nhận từ góc độ xã hội, còn góc độ pháp lí lại đ­ược thừa nhận muộn hơn hoặc bị đánh giá ngược lại. Chẳng hạn, việc toà án thừa nhận quan hệ hôn nhân thực tế hoặc truy nhận cha cho con ngoài giá thú.
Tóm lại, cơ chế điều chỉnh pháp luật bao gồm cả cơ chế xây dựng pháp luật, cơ chế thực hiện, áp dụng pháp luật và cơ chế bảo vệ pháp luật. Việc hình thành các quan hệ pháp luật trong mỗi loại hình cơ chế đó có nhiệm vụ cụ thể và vai trò khác nhau nhất định. Để phát triển quan hệ pháp luật, về mặt lí luận và thực tế không chỉ xem xét vai trò tích cực, giá trị hữu ích mà cần thiết phải xem xét cả mặt phản tác dụng của nó đối với các nhân tố khác để có đư­ợc các biện pháp xử lí phù hợp.
Để kích thích, hỗ trợ và bảo vệ sự phát triển của các quan hệ xã hội, ngoài vị trí là mắt xích trong cơ chế điều chỉnh pháp luật, quan hệ pháp luật còn đ­ược nhận diện nh­ư là phư­ơng tiện của việc điều chỉnh pháp luật, phư­ơng tiện tác động đến các quan hệ xã hội có tính cách độc lập. Nh­ư vậy ở đây, quan hệ pháp luật đ­ược xem xét tách rời khỏi nội dung thực tế, nó chỉ đ­ược coi nh­ư tổng thể các quyền và nghĩa vụ gắn với tình huống đã quy định. Chúng ta có thể thấy sự khác biệt nhất định giữa "hoạt động" của quy phạm pháp luật với tính cách là quy định chung với việc thực hiện nó trong các quan hệ cụ thể. Xét từ góc độ cụ thể, vai trò của quan hệ pháp luật phụ thuộc vị trí của nó trong từng giai đoạn của quá trình điều chỉnh pháp luật cũng nh­ư loại quan hệ pháp luật thực tế đó. Mặc dù nằm trong cơ chế điều chỉnh pháp luật như­ng cũng có thể tách biệt quan hệ pháp luật với các yếu tố khác để nhận diện được vai trò của nó được sâu sắc và đầy đủ hơn. Xem xét vai trò quan hệ pháp luật từ thực tế phải gắn liền từng quan hệ thực tế có chủ thể, quyền, nghĩa vụ cụ thể. Chẳng hạn, quan hệ pháp luật phát sinh từ việc đăng kí tạm trú, tạm vắng của phường A có ý nghĩa gì trong việc quản lí hành chính, hộ tịch... ở địa ph­ương đó.
Cũng có khi quan hệ pháp luật trong thực tế là sự kiện pháp lí có liên quan đang được các cơ quan có thẩm quyền giải quyết, vì vậy quan hệ này có thể phủ định quan hệ kia. Việc nhận diện vai trò cụ thể của quan hệ pháp luật trong tr­ường hợp này có phần phức tạp hơn. Chẳng hạn, trong tr­ường hợp bản án giám đốc thẩm huỷ án đã phát sinh hiệu lực (có thể là án sơ thẩm hoặc phúc thẩm) để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm ban đầu thì một số quan hệ pháp luật phát sinh trong giai đoạn điều tra, truy tố và xét xử trước đó bị huỷ bỏ. Cũng có khi quan hệ pháp luật trư­ớc trở thành điều kiện, sự kiện pháp lí cho việc hình thành quan hệ pháp luật sau, do đó vai trò của mỗi loại quan hệ pháp luật cụ thể ở đây hoàn toàn khác nhau.
c. Quan hệ pháp luật là cơ sở thực tế để nhận thức giá trị xã hội và kiểm nghiệm tính đúng đắn của pháp luật
Có thể nói, giá trị của pháp luật thể hiện trư­ớc hết và cơ bản nhất khi nó trở thành công cụ điều chỉnh, trật tự hoá các quan hệ xã hội. Vì thế giá trị lớn nhất của pháp luật chính là giá trị điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội. Pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội, điều chỉnh hành vi của các chủ thể theo định h­ướng, mục tiêu nhất định trên cơ sở tác động tới ý thức của chủ thể. Để hình thành giá trị đó, ngoài những thuộc tính vốn có của pháp luật thì những quy tắc khách quan của cách xử sự hợp lí và các yêu cầu điều chỉnh bằng pháp luật phải đ­ược hiện thực hoá thông qua hành vi của chủ thể trong các quan hệ pháp luật cụ thể. Nh­ư vậy, quan hệ pháp luật là cơ sở để nhận thức giá trị xã hội của pháp luật. Đời sống pháp lí là nơi mà pháp luật phát huy giá trị đích thực của mình thông qua hệ thống quan hệ pháp luật cụ thể.
Tính đúng đắn của pháp luật đ­ược thể hiện trư­ớc hết ở việc xác định chính xác đối tư­ợng điều chỉnh và sự phù hợp về mức độ điều chỉnh, tác động. Nhưng cơ bản và quyết định vẫn phải xem xét hiệu quả pháp luật trên thực tế. Việc xem xét hiệu quả pháp luật trên thực tế chỉ có thể thực hiện đư­ợc khi gắn với hành vi pháp lí, với quan hệ pháp luật cụ thể. Tr­ước mỗi loại quan hệ pháp luật cụ thể, tuỳ thuộc mức độ nhận thức và góc độ quan sát, thông th­ường có hai khả năng đem lại: Một là, chủ thể sẽ xem xét nội dung quan hệ pháp luật đó nhằm giải đáp cho những v­ướng mắc của mình, loại bỏ những cơ sở hành vi có thể dẫn đến trái pháp luật hoặc tìm kiếm các khả năng t­ương tự để thiết lập, tham gia quan hệ pháp luật. Đây là cách nhận thức, hiểu biết pháp luật phù hợp với nhiều đối tượng và càng cần thiết hơn khi cho rằng pháp luật ít đi vào đời sống thực tế và ít phát huy giá trị trên thực tế. Tuy nhiên cách nhận thức này mang tính cục bộ, thụ động và thường phiến diện. Hai là, khả năng chủ thể nhận thức cao hơn, toàn diện hơn bằng việc đối chiếu nội dung quan hệ pháp luật cụ thể với nội dung các quy định của pháp luật có liên quan. Khả năng này đem lại sự kiểm nghiệm về tính đúng đắn, mức độ hiện thực của pháp luật và sự phù hợp giữa pháp luật với điều kiện thực tế. Mặc dù trong xây dựng pháp luật, ng­ười ta đã cố gắng khái quát nhu cầu thực tế để đ­ưa ra những mô thức hành vi pháp luật thích hợp nh­ưng không phải là không có những lỗ hổng, mâu thuẫn và bất cập. Do đó, việc xem xét thực trạng quan hệ pháp luật là một biện pháp góp phần kiểm tra giá trị thực tế của pháp luật. Nh­ư vậy, quan hệ pháp luật trở thành th­ước đo, cơ sở đánh giá chất lư­ợng của hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ pháp luật. Đây là vai trò, chức năng của quan hệ pháp luật cần phải đ­ược coi trọng về mặt thực tiễn. Đồng thời trong khoa học, việc nghiên cứu các mối quan hệ bên ngoài của hệ thống pháp luật đòi hỏi phải xem xét mối quan hệ, sự tư­ơng tác hữu cơ với quan hệ pháp luật./.
(1). ở đây quan niệm văn bản cá biệt rộng hơn văn bản áp dụng pháp luật (văn bản áp dụng pháp luật chỉ là của một loại văn bản cá biệt).
(2). Đây là vấn đề phức tạp trong nhận thức luận, do khuôn khổ bài viết có hạn, tác giả xin trao đổi ở phần sau.


Thuộc tạp chí: Tạp chí Luật học số 2/2003 (2/2003)
Chuyên mục: Nghiên cứu - trao đổi
Chuyên ngành:
Nhà xuất bản: Trường đại học Luật
Năm xuất bản: 2003

Thứ Năm, 4 tháng 9, 2008

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

CẢI CÁCH HÀNH CHÍNH VÀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

PGS.TS Đinh Ngọc Vượng
Viện Nhà nước và Pháp luật, Việt Nam

1. Đặt vấn đề
Ngày nay, cải cách hành chính là vấn đề mang tính toàn cầu. Cả các nước đang phát triển và các nước phát triển đều xem cải cách hành chính như một động lực mạnh mẽ để thúc đẩy tăng trường kinh tế, phát triển dân chủ và các mặt khác của đời sống xã hội.
Ở Việt Nam, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước được bắt đầu từ năm 1986, tính đến nay đã gần 20 năm. Trong khoảng thời gian đó, đồng thời với việc đổi mới về kinh tế thì cải cách hành chính cũng được tiến hành. Cuộc cải cách hành chính được thực hiện từng bước thận trọng và đã thu được nhiều kết quả rất đáng khích lệ. Cải cách hành chính đang thể hiện rõ vai trò quan trọng của mình trong việc đẩy nhanh sự phát triển đất nước. Việt Nam đang là nước xuất khẩu gạo đứng hàng thứ hai, thứ ba trên thế giới, công nghiệp và dịch vụ phát triển, đầu tư nước ngoài xu hướng chung là tăng, nhiều vấn đề xã hội đang được giải quyết tốt. . .Tuy nhiên, Ở Việt Nam đang còn rất nhiều vấn đề kinh tế - xã hội đã tồn tại từ lâu và mới nảy sinh cần phải được giải quyết tích cực và có hiệu quả. Bên cạnh đó, bối cảnh toàn cầu hoá đang đặt ra trước Việt Nam những thách thức và cơ hội mới đòi hỏi phải có những cố gắng cao độ. Điều đó cũng có nghĩa là quá trình cải cách hành chính ở Việt Nam còn rất nhiều vấn đề đặt ra cần được tiếp tục giải quyết. Cái khó trong cải cách hành chính Ở Việt Nam là phải tiến hành một cuộc cải cách hành chính có tính chất cách mạng từ quản lý lập trung quan liêu, bao cấp sang quản lý trong điều kiện kinh tế thị trường và mở rộng dân chủ. Điều này chưa từng có tiền lệ. Vì vậy, đối với chúng tôi, bên cạnh việc tự tìm tòi thì việc tham khảo kinh nghiệm cải cách hành chính ở các nước (trong đó có Nhật Bản) là hết sức cần thiết để đẩy mạnh và có kết quả hơn nữa công cuộc cải cách nền hành chính nhà nước.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền đã hình thành sớm trong lịch sử tư tưởng chính trị- pháp lý của nhân loại, ngày càng được bổ sung với những nội dung mới. Nhưng nội dung căn bản của lý thuyết" nhà nước pháp quyền" là sự đề cao pháp luật trong mối tương quan với nhà nước, pháp luật như là công cụ để hạn chế quyền lực nhà nước.
Nhà nước pháp quyền là một hiện tượng phức tạp chứa đầy ẩn số, đầy những mâu thuẫn nội tại của nó. Nhà nước pháp quyền được tạo bởi hai thành tố " nhà nước" và " pháp quyền". Sự phức tạp, mâu thuẫn là ở chỗ, nhà nước đặt ra pháp luật nhưng nhà nước lại phải tôn trọng pháp luật, đặt mình dưới pháp luật, coi pháp luật là những chuẩn mực cho mọi hành vi hoạt động của mình. Thêm vào đó sự phức tạp còn là ở chỗ có vô số những quan niệm về nhà nước và về pháp luật. Đã nhiều thời đại và cho đến tận ngày nay ngưòi ta vẫn quan niệm: "nhà nước là công cụ thống trị của giai cấp này đối với giai cấp khác trong xã hội" hay "nhà nước là tổ chức phúc lợi chung của xã hội", còn pháp luật là ý chí của giai cấp thống trị được đề lên thành luật". Trong khi người ta có thể thừa nhận sự lệ thuộc của nhà nước vào pháp luật, nhưng thực tiễn lại có vô số những hành vi vi phạm pháp luật từ phía công quyền.
Lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp năm 1992 đã được sửa đổi, bổ sung năm 2001 ghi nhận quan điểm xây dựng nhà nước pháp quyền. Điều 2 ghi nhận: "Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân , vì nhân dân".
Việc ghi nhận đó là cơ sở pháp lý sác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam. Nhưng xây dựng nhà nước pháp quyền là một quá trình lâu dài, phức tạp, các quốc gia xây dựng nhà nước pháp quyền với những xuất phát điểm khác nhau về đời sống kinh tế- xã hội và văn hóa và bằng những con đường, bước đi khác nhau, không có một mô hình chung cho mọi dân tộc.
2. Quan niệm về nhà nước pháp quyền
Về nhà nước pháp quyền cũng có vô số những quan niệm khác nhau, được nhìn nhận từ nhiều khía cạnh khác nhau. Do đó không thể có một định nghĩa ngắn gọn về nhà nước pháp quyền, mà cần cần phải xem xét nhà nước pháp quyền từ nhiều khía cạnh, phương diện khác nhau.
Về mặt nhận thức theo tôi nhà nước pháp quyền có những đặc trưng mang tính phổ biến sau đây:
- Nhà nước pháp quyền trước hết là nhà nước hợp hiến, hợp pháp; nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, trong đó các đạo luật chiếm ưu thế trong hệ thống pháp luật;
Pháp luật của nhà nước pháp quyền là pháp luật chứa đựng tính nhân văn, nhân đạo, pháp luật vì con người, vì số đông trong xã hội, pháp luật phải thể hiện được ý chí cộng đồng dân tộc, quốc gia, không phải ý chí của một nhóm người, một cá nhân hay một tập đoàn nào đó.
- Nhà nước, các cơ quan của nhà nước phải đặt mình dưới pháp luật, lệ thuộc vào pháp luật. Trong mối quan hệ giữa nhà nước với pháp luật thì "tính trội " thuộc về pháp luật, ở khía cạnh này pháp luật như là công cụ, phương tiện để hạn chế quyền lực nhà nước, hạn chế công quyền.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước trong đó các quyền tự do của công dân phải ngày càng được mở rộng, được bảo đảm, bảo vệ bằng cơ chế pháp luật, bằng các tiền đề, điều kiện về kinh tế- xã hội, bằng tổ chức nhà nước. Như vậy, pháp luật là công cụ phương tiện ghi nhận, bảo vệ các quyền công dân.
- Nhà nước pháp quyền là nhà nước mà trong đó thiết lập mối quan hệ trách nhiệm qua lại giữa công dân với nhà nước và nhà nước với công dân. Công dân có trách nhiệm với nhà nước và nhà nước có trách nhiệm với công dân.
Trong nhà nước pháp quyền vai trò của Toà án được đề cao, các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp phải độc lập một cách tương đối, phối hợp với nhau và phải kiềm chế được nhau.
Ngoài những đặc điểm mang tính phổ biến đó, Nhà nước pháp quyền Việt Nam lại có một số đặc điểm mang tính riêng biệt của mình thể hiện định hướng chính trị của nhà nước, tính chất, bản chất của nhà nước mà Việt Nam cần xây dựng đó là: Nhà nước pháp quyền Việt Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước mà tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; Nhà nước pháp quyền Việt Nam phải là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam được xây dựng trên cơ sở quan điểm quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Nhà nước pháp quyền Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam- đảng của giai cấp công nhân Việt Nam và của cả dân tộc. Đây là những vấn đề mang tính nguyên tắc có tính chính trị- xã hội định hướng cho việc xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam trên thực tế.
Tóm lại: Nhà nước pháp quyền là nhà nước hợp hiến, hợp pháp, mọi hoạt động của nhà nước hợp hiến, hợp pháp, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước pháp quyền dân chủ.
Thông quan những nhận thức này về nhà nước pháp quyền có thể nhận thấy những điều cốt yếu khi xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải giải quyết trên thực tế: quan hệ nhà nước và pháp luật; quan hệ nhà nước với dân cư; tạo được các các bảo đảm pháp lý, các tiền đề, điều kiện cho xây dựng nhà nước pháp quyền; xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam phải bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa; bảo đảm bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân của nhà nước.
Trong những năm gần đây để từng bước xây dựng nhà nước pháp quyền, Nhà nước Việt Nam đã thực hiện nhiều hoạt động: Hoàn thiện, sửa đổi Luật, cũng như các văn bản dưới luật; tăng cường các định chế kiểm tra, thanh tra, giám sát việc thực hiện pháp luật; Đổi mới bộ máy nhà nước từ việc tổ chức đến hoạt động thực tế của cơ quan quyền lực nhà nước; cơ quan hành chính, cơ quan tư pháp; chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường nhằm giải phóng mọi năng lực sản xuất xã hội, phát huy tính năng động sáng tạo, dân chủ của người dân trong lĩnh vực kinh tế. Đây là tiền đề, điều kiện có tính căn bản, nền tảng của xây dựng nhà nước pháp quyền.
Về mặt nhận thức có thể nói rằng ngày nay nghiên cứu về nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đã bước qua giai đoạn trả lời câu hỏi: Nhà nước pháp quyền là gì? để xây dựng nhà nước pháp quyền cần phải làm gì? mà chuyển sang giai đoạn để xây dựng nhà nước pháp quyền phải làm như thế nào?. Quốc hội, Chính phủ, Tòa án, Kiểm sát phải tổ chức và hoạt động như thế nào, phải làm gì để xây dựng nhà nước pháp quyền.
3. Nhà nước pháp quyền với việc cải cách hành chính ở Việt Nam
Lịch sử đã chỉ ra rằng bất kỳ một cuộc cải cách nào cũng đều có mục tiêu, mục đích xã hội của nó. Mục tiêu cải cách hành chính ở Việt Nam hiện nay là: xây dựng một nền hành chính trong sạch, vững mạnh, tiết kiệm, chuyên nghiệp, phục vụ nhân dân ngày một tốt hơn.
Cải cách hành chính ở Việt nam được tiến hành nhiều năm nay với những bước đi- lộ trình khác nhau từ thấp tới cao. Bắt đầu là việc cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức, đến cải cách một bước nền hành chính nhà nước với ba nội dung là: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức. Ngày nay cải cách hành chính đã chuyển sang một bước mới với bốn nội dung: cải cách thể chế hành chính; cải cách bộ máy hành chính nhà nước; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức; cải cách tài chính công.
Trong những năm qua cải cách hành chính ở Việt Nam đã làm được những gì để góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền đó là:
- Về thể chế hành chính đã sửa đổi Hiến pháp, ban hành các Luật mới và các văn bản dưới luật về tổ chức bộ máy nhà nước; Sửa đổi bổ sung một số điều Pháp lệnh cán bộ, công chức; ban hành các nghị định để cụ thể hóa Pháp lệnh, cán bộ, công chức...Điều quan trọng là: các văn bản về tổ chức bộ máy nhà nước là đã quy định khá cụ thể quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước, từng bước thể hiện sự phân cấp trong quản lý giữa Trung ương và địa phương; các văn bản pháp luật về công vụ, cán bộ, công chức đã quy định khá cụ thể các quyền, nghĩa vụ của các cán bộ, công chức và đã bước đầu đi theo hướng chuyên biệt hoá các đối tượng những người phục vụ trong cơ quan, tổ chức nhà nước.
- Về bộ máy hành chính đã giảm dần các đầu mối quản lý, số lượng các cơ quan quản lý nhà nước đã giảm xuống đáng kể, thủ tuc hành chính được cải cách theo hướng "một cửa", mẫu hóa các văn bản hành chính, giấy tờ, công khai các thủ tục hành chính. Chính việc cải cách thủ tục hành chính này đã góp phần hạn chế sự sách nhiễu, phiến hà, tham những của các công chức hành chính trong khi giải quyết các công việc của công dân. Đây là điểm căn bản nhất của cải cách hành chính góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền.
Một vấn đề đang được quan tâm trong cải cách hành chính ở Việt Nam là vấn đề phân cấp trong quản lý nhà nước. Phân cấp thực chất là việc chuyển dần các công việc, nguồn lực do chính quyền trung ương nắm giữ cho chính quyền địa phương các cấp một cách lâu dài, ổn định bằng các văn bản luật, dưới luật, nhằm mở rộng dân chủ, phát huy tính chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương. Trong xu hướng phân cấp bộ máy hành chính nhà nước ở trung ương sẽ tập trung vào việc xây dựng chính sách, bảo đảm sự thống nhất về thể chế, việc giải quyết những vấn đề lớn của quốc gia, còn những việc thuộc phạm vi cộng đồng lãnh thổ do cộng đồng lãnh thổ giải quyết. Như vậy, vấn đề phân cấp gắn với vấn đề dân chủ, dân chủ là cốt lõi của nhà nước pháp quyền, không có dân chủ thì không có nhà nước pháp quyền, không mở rộng quyền chủ động sáng tạo của chính quyền địa phương thì không có nhà nước pháp quyền. Bởi vì chỉ có thể thông qua những thiết chế dân chủ, phát huy tính dân chủ, sáng tạo của cộng đồng lãnh thổ mới có thể tạo lập được môi trường thuận lợi để nhân dân các cộng đồng lãnh thổ kiểm soát được hoạt động của nhà nước.
Ngày nay một số địa phương đã áp dụng tiêu chuẩn ISO để đánh gía, kiểm soát thường xuyên hoạt động của các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các công việc của cá nhân, tổ chức. Trong số các tiêu chí đánh giá về cơ quan hành chính có các tiêu chí đáng lưu ý gắn với nhà nước pháp quyền: tính hợp pháp của nội dung các quyết định; tính đúng đắn về thời hạn theo quy định của pháp luật của các quyết định; tính đúng đắn về thủ tục giải quyết các công việc. Thực tiễn việc áp dung các tiêu chuẩn ISO vào hoạt động hành chính đã mang lại những kết quả đáng kể: việc giải quyết các công việc của dân đơn giản, nhanh gọn, đúng pháp luật, đúng thời hạn, đúng thủ tục.
Tóm lại việc cải cách hành chính ở Việt Nam trong những năm qua và trong tương lai đi theo hướng làm cho bộ máy hành chính hoàn bị hơn, hoạt động có hiệu quả hơn, phục vụ nhân dân ngày một đúng pháp luật, tốt hơn và tiết kiệm nhất, dần từng bước chuyển nền hành chính từ cơ quan cai quản thành các cơ quan phục vụ dân, làm các dịch vụ hành chính đối với dân, công dân là khách hàng của nền hành chính, là người đánh gía khách quan nhất về mọi hoạt động của bộ máy nhà nước, bộ máy hành chính.
Tất cả những mục tiêu đó của cải cách hành chính cũng là nhằm góp phần xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa với bản chất của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân.

Thứ Tư, 30 tháng 7, 2008

Bình ngô đại cáo

Bình Ngô Đại Cáo
Bản dịch của Ngô Tất Tố
Thay trời hành hóa, hoàng thượng chiếu rằng,
Từng nghe: Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân, Quân điếu phạt trước lo trừ bạo; Như nước Đại Việt ta từ trước, Vốn xưng nền văn hiến đã lâu, Nước non bờ cõi đã chia, Phong tục Bắc Nam cũng khác; Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần; bao đời xây nền độc lập; Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên; mỗi bên hùng cứ một phương; Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, Song hào kiệt thời nào cũng có. Cho nên: Lưu Cung tham công nên thất bại; Triệu Tiết chí lớn phải vong thân; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã Việc xưa xem xét. Chứng cứ còn ghi. Vưà rồi: Nhân họ Hồ chính sự phiền hà Để trong nước lòng dân oán hận Quân cuồng Minh thưà cơ gây loạn Bọn gian tà còn bán nước cầu vinh Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế Gây thù kết oán trải mấy mươi năm Bại nhân nghĩa nát cả đất trờị Nặng thuế khóa sạch không đầm núi. Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, Ngán thay cá mập thuồng luồng. Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, Khốn nỗi rừng sâu nước độc. Vét sản vật, bắt dò chim sả, chốn chốn lưới chăng. Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt. Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ, Nheo nhóc thay kẻ góa bụa khốn cùng. Thằng há miệng, đứa nhe răng, Máu mỡ bấy no nê chưa chán, Nay xây nhà, mai đắp đất, Chân tay nào phục dịch cho vừa ? Nặng nề những nổi phu phen Tan tác cả nghề canh cửi. Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội, Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi! Lòng người đều căm giận, Trời đất chẳng dung tha; Ta đây: Núi Lam Sơn dấy nghĩa Chốn hoang dã nương mình Ngẫm thù lớn há đội trời chung Căm giặc nước thề không cùng sống Đau lòng nhức óc, chốc đà mười mấy năm trời Nếm mật nằm gai, há phải một hai sớm tối. Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh, Ngẫm trước đến nay, lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ Những trằn trọc trong cơn mộng mị, Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi Vừa khi cờ nghĩa dấy lên, Chính lúc quân thù đang mạnh. Lại ngặt vì: Tuấn kiệt như sao buổi sớm, Nhân tài như lá mùa thu, Việc bôn tẩu thiếu kẻ đở đần, Nơi duy ác hiếm người bàn bạc, Tấm lòng cứu nước, Vẫn đăm đăm muốn tiến về Đông, Cỗ xe cầu hiền, Thường chăm chắm còn dành phía tả. Thế mà: Trông người, người càng vắng bóng, Miịt mù như nhìn chốn bể khơi. Tự ta, ta phải dốc lòng, Vội vã hơn cứu người chết đói. Phần vì giận quân thù ngang dọc, Phần vì lo vận nước khó khăn, Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần, Lúc Khôi Huyện quân không một đội. Trời thử lòng trao cho mệnh lớn Ta gắng trí khắc phục gian nan. Nhân dân bốn cõi một nhà, Dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới Tướng sĩ một lòng phụ tử, Hòa nước sông chén rượu ngọt ngào. Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh, Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. Trọn hay: Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạọ Trận Bồ Đằng sấm vang chớp giật, Miền Trà Lân trúc chẻ tro bay. Sĩ khí đã hăng quuân thanh càng mạnh. Trần Trí, Sơn Thọ nghe hơi mà mất vía, Lý An, Phương Chính, nín thở cầu thoát thân. Thừa thắng đuổi dài, Tây Kinh quân ta chiếm lại, Tuyển binh tiến đánh, Đông Đô đất cũ thu về. Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh hôi vạn dặm Tụy Động thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. Phúc tâm quân giặc: Trần Hiệp đã phải bêu đầu Mọt gian kẻ thù: Lý Lượng cũng đành bỏ mạng. Vương Thông gỡ thế nguy, Mà đám lửa cháy lại càng cháy Mã Anh cứu trận đánh Mà quân ta hăng lại càng hăng. Bó tay để đợi bại vong, Giặc đã trí cùng lực kiệt, Chẳng đánh mà người chịu khuất, Ta đây mưu phạt tâm công. Tưởng chúng biết lẽ ăn năn Nên đã thay lòng đổi dạ Ngờ đâu vẫn đương mưu tính Lại còn chuốc tội gây oan. Giữ ý kiến một người, Gieo vạ cho bao nhiêu kẻ khác, Tham công danh một lúc, Để cười cho tất cả thế gian. Bởi thế: Thằng nhãi con Tuyên Đức động binh không ngừng Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy Đinh mùi tháng chín, Liễu Thăng đem binh từ Khâu Ôn kéo lại Năm ấy tháng mười, Mộc Thạnh chia đường từ Vân Nam tiến sang. Ta trước đã điều binh thủ hiểm, Chặt mũi tiên phong Sau lại sai tướng chẹn đường Tuyệt nguồn lương thực Ngày mười tháng tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu Ngày hăm lăm, bá tước Lương Minh đại bại tử vong Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn. Thuận đà ta đưa lưỡi dao tung phá Bí nước giặc quay mũi giáo đánh nhau Lại thêm quân bốn mặt vây thành Hẹn đến giữa tháng mười diệt giặc Sĩ tốt kén người hùng hổ Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh Gươm mài đá, đá núi cũng mòn Voi uống nước, nước sông phải cạn. Dánh một trận, sạch không kình ngạc Đánh hai trận tan tác chim muông. Cơn gió to trút sạch lá khô, Tổ kiến hổng sụt toang đê vỡ. Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội, Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. Lạng Giang, Lạng Sơn, thây chất đầy đường Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước Ghê gớm thay! Sắc phong vân phải đổi, Thảm đạm thay! Ánh nhật nguyệt phải mờ. Bị ta chặn ở Lê Hoa, Quân Vân Nam nghi ngờ, khiếp vía mà vỡ mật Nghe Thăng thua ở Cần Trạm, Quân Mộc Thạnh xéo lên nhau, chạy để thoát thân. Suối Lãnh Câu, máu chảy thành sông, Nước sông nghẹn ngào tiếng khóc Thành Đan Xá, thây chất thành núi, Cỏ nội đầm đìa máu đen. Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp, Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng Tướng giặc bị cầm tù, Như hổ đói vẫy đuôi xin cứu mạng Thần vũ chẳng giết hại, Thể lòng trời ta mở đường hiếu sinh Mã Kỳ, Phương Chính, cấp cho năm trăm chiếc thuyền, Ra đến biển mà vẫn hồn bay phách lạc, Vương Thông, Mã Anh, phát cho vài nghìn cỗ ngựa, Về đến nước mà vẫn tim đập chân run. Họ đã tham sống sợ chết mà hòa hiếu thực lòng Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. Chẳng những mưu kế kì diệu Cũng là chưa thấy xưa nay Xã tắc từ đây vững bền Giang sơn từ đây đổi mới Càn khôn bĩ rồi lại thái Nhật nguyệt hối rồi lại minh Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu Muôn thuở nền thái bình vững chắc Âu cũng nhờ trời đất tổ tông Linh thiêng đã lặng thầm phù trợ; Than ôi! Một cỗ nhung y chiến thắng, Nên công oanh liệt ngàn năm Bốn phương biển cả thanh bình, Ban chiếu duy tân khắp chốn. Xa gần bá cáo, Ai nấy đều hay.

Thứ Năm, 17 tháng 7, 2008

Đổi mới hệ thống chính trị


HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VÀ ĐỔI MỚI HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ
Đinh Phan Quỳnh
ĐẶT VẤN ĐỀ.
Hệ thống chính trị là một trong những vấn đề cơ bản chi phối đến mọi mặt của đời sống chính trị xã hội của các quốc gia. Đây là vấn đề mang tính chất chính trị – pháp lý và khi nói về hệ thống chính trị thì cũng có những cách hiểu khác nhau. Hiện nay tồn tại ba cách tiếp cận hệ thống chính trị khác nhau, cụ thể như sau:
Cách tiếp cận thứ nhất: Xác định hệ thống chính trị như là một hệ thống về mặt tổ chức và chức năng của thiết chế đảng chính trị, nhà nước, các tổ chức chính trị xã hội; về cách tiếp cận này chúng ta có thể nó được giới thiệu và phân tíc khá kỹ trong: “ Những vấn đề lý luận cơ bản về nhà nước và pháp luật” do nhà xuất bản Chính trị Quốc gia ấn hành năm 1995 do tác giả Đào Trí Úc chủ biên. Theo đó thì hệ thống chính trị thể hiện mối quan hệ giữa các thiết chế chính trị; các hoạt động chính trị, quyết định và hành vi chính trị; ý thức chính trị và hành vi chính trị.
Cách tiếp cận thứ hai: Hệ thống chính trị vừa bao gồm các bộ phận về mặt tổ chức, chức năng vừa bao gồm những yếu tố thể hiện bản chất của hệ thống chính trị và những điều kiện đảm bảo cho chúng vận hành một cách trơn tru.
Cách tiếp cận thứ ba: Theo đó thì hệ thống chính trị được hiểu như là một hệ thống cơ chế thực hiện quyền lực chính trị và quyền lực nhà nước. Hêï thống chính trị được hiểu về mặt nội dung của nền dân chủ, thể hiện quyền lực chính trị của nhân dân dưới nhiều hình thức, bao gồm các chế định dân chủ như: dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện.
Chúng ta thấy mỗi cách tiếp cận đề có những hạt nhân hợp lý của nó và thông qua đó cũng cho chúng ta thấy được tính chất phức tạp cũng như tầm quan trọng của hệ thống chính trị. Vậy hệ thống chính trị là gì, các nhà nghiên cứu về khoa học pháp lý Việt Nam định nghĩa như thế nào về hệ thống chính trị?. Theo quan điểm của đại đa số các nhà nghiên cứu về khoa học pháp lý ở Việt Nam thì hệ thống chính trị được hiểu như sau: “Hệ thống chính trị là một chỉnh thể thống nhất bao gồm các bộ phận cấu thành là các thiết chế chính trị có vị trí, vai trò khác nhau nhưng có quan hệ mật thiết với nhau trong quá trình tham gia thực hiện quyền lực chính trị”. Từ cách hiểu về hệ thống chính trị như trên, giáo trình Luật Hiến pháp xuất bản năm 2005 của trường Đại học Luật Hà Nội đưa ra một định nghĩa như sau vè hệ thống chính trị : “Hệ thống chính trị là một cơ cấu bao gồm Nhà nước, các đảng phái, các tổ chức xã hội và chính trị tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật hiện hành, được chế định theo tư tưởng giai cấp cầm quyền nhằm tác động vào các quá trình kinh tế – xã hội với mục đích duy trì và phát triển chế độ đó”.

NHỮNG ĐẶC ĐIỂM CƠ BẢN CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM.
Hệ thống chính trị Việt Nam ra đời sau Cách mạng tháng 8/ 1945 cùng với sự hình thành nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Hệ thống chính trị Việt Nambao gồm Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội khác là thành viên của mặt trận tổ quốc như: Tổng liên đoàn lao động Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam, Hội nông dân Việt Nam, Hội cựu chiến binh Việt Nam…. Xuất phát từ đặc thù của nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hệ thống chính trị Việt Nam có những đặc điểm cơ bản sau đây:
Thứ nhất: Hệ thống chính trị Việt Nam luôn đặt dưới sự lãnh đạo nhất quán của một chính đảng duy nhất đó là Đảng cộng sản Việt Nam, vì vậy mà hệ thống chính trị Việt Nam luôn có tính nhất nguyên chính trị. Nền tảng tư tưởng chung của cả hệ thống chính là chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, lấy mục tieu chủ nghĩa xã hội làm mục tiêu chung.
Thứ hai: Hệ thống chính trị Việt Nam là một hệ thống có tính nhân dân sâu sắc, điều này được thể hiện trong tổ chức và hoạt động của tất cả các thiết chế chính trị của hệ thống chính trị Việt Nam. Mọi thiết chế đều gắn liền với một tầng lớp nhân dân nhất định, hoạt động vì lợi ích của nhân dân, là nguồn sức mạnh của nhân dân.
Thứ ba: Hệ thống chính trị Việt Nam được tổ chức một cách chặt chẽ và khoa học, có sự phân định rõ vị trí, vai trò và chức năng cũng như nhiệm vụ của mỗi tổ chức. Các thành viên của hệ thống chính trị có địa vị pháp lý vững chắc theo quy định của Hiến pháp và pháp luật ví dụ như điều 9 – Hiến pháp 1992 quy định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt Nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.". Và nội dung này đã được cụ thể hoá tại Luật Mặt trận tổ quốc 1999. Hay cũng tại Hiến pháp 1992 đã dành hẳn 1 điều (điều 10) quy định về vai trò của Công đoàn và chúng ta cũng đã có Luật Công đoàn; rồi Luật Thanh niên…
Thứ tư: Hệ thống chính trị được tổ chức rộng khắp và hoạt động theo nguyên tắc tạp trung dân chủ. Các thiết chế chính trị của hệ thống chính trị đều là những thiết chế của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện dân chủ sâu rộng trong hoạt động của mình phù hợp với xu thế dân chủ hoá đời sống xã hội đương đại trên cơ sở pháp luật:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức và hoạt động theo Điều lệ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam phù hợp với Hiến pháp và pháp luật.
Tổ chức, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện, hiệp thương dân chủ, phối hợp và thống nhất hành động.
Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam ở mỗi cấp là cơ quan chấp hành của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cùng cấp, do Đại hội đại biểu Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp đó hiệp thương cử ra, có trách nhiệm tổ chức thực hiện nhiệm vụ của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam”( Đ3-Luật MTTQ)
Thứ năm: Tính thống nhất về mục tiêu hoạt động cơ bản là phục vụ lợi ích nhân dân, dân tộc. Tính thống nhất của hệ thống chính trị dược bắt nguồn từ từ sự thống nhất về kinh tế, chính trị cũng như tư tưởng trong xã hội.
Thứ sáu: Các thành viên của hêï thống chính trị do Đảng cộng sản thành lập ra có lịch sử đấu tranh cách mạng vẻ vang, có vai trò to lớn trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng đất nước.

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ VIỆT NAM QUA CÁC BẢN HIẾN PHÁP
Như đã trình bày ở trên hệ thống chính trị Việt Nam ra đời sau Cách mạng tháng 8/ 1945 cùng với sự hình thành nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông Nam Á. Hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước, Mặt trận tổ quốc và các tổ chức xã hội khác là thành viên của mặt trận tổ quốc; qua các thời kỳ lịch sử của đất nước dù trong bất kỳ hoàn cảnh nào hệ thống chính trị Việt Nam cũng phát huy được sức mạnh của mình và vị trí cũng như vai trò của hệ thống chính trị luôn được ghi nhận trong các bản Hiến pháp Việt Nam. Tất nhiên sự ghi nhận đó do xuất phát từ những điều kiện khách quan cũng như chủ quan cho có những điểm không giống nhau cụ thể:
Tại bản Hiến pháp đầu tiên, Hiến pháp 1946, do tình hình đất nước vào thời điểm đó đang cần phải tập trung được sức mạnh của mọi giai tầng, giai cấp để bảo vệ nhà nước Việt Nam non trẻ, cũng như làm công việc kiến thiết đất nước, nên chúng ta thấy Hiến pháp 1946 chưa quy định một cách cụ thể, rõ ràng về vị trí cũng như vai trò của các bộ phận hợp thành của hệ thống như là Đảng cộng sản hay Mặt trận tổ quốc như các bản Hiến pháp sau này. Tuy nhiên mặc dù không có sự ghi nhận một cách rõ ràng nhưng thông qua các điều luật, các chế định cũng đã phần nào thể hiện được vị trí cũng như vai trò quan trọng của các bộ phận của hệ thống như là một phần không thể thiếu bên cạnh thiết chế nhà nước.
Trong Hiến pháp 1959 cũng xuất phát từ tình hình đất nước vào thời điểm bấy giờ còn đang bị chia cắt hai miền nam – bắc, trong khi miền bắc đã tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội còn miền nam vẫn tiếp tục làm cuộc cách mạng giải phóng dân tộc dân chủ nhân dân, vì vậy Hiến pháp 1959 cũng chưa có những quy định cụ thể quy định về các bộ phận hợp thành của hệ thống, tuy nhiên cũng như Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959 cũng đã thể hiện được vai trò cũng như vị trí vô cùng quan trọng của các bộ phận này ví dụ như trong lời nói đầu của Hiến pháp 1959 đã khẳng định:
“Từ năm 1930, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương, ngày nay là Đảng Lao động Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã tiến lên một giai đoạn mới. Cuộc đấu tranh bền bỉ đầy gian khổ và hy sinh dũng cảm của nhân dân ta chống ách thống trị của đế quốc và phong kiên đá giành được thắng lợi vĩ đại: Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà thành lập, ngày 2 tháng 9 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh tuyên bố nước Việt Nam độc lập trước quốc dân và toàn thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử, nhân dân Việt Nam đã xây dựng một nước Việt Nam độc lập và dân chủ.”
Bắt đầu từ Hiến pháp 1980, Hiến pháp của một đất nước Việt Nam hoàn toàn thống nhất và tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội, Hiến pháp đã quy định một cách vô cùng cụ thể và rõ ràng vị trí, vai trò cũng như chức năng của cả hệ thống chính trị nói chung cũng như các bộ phận hợp thành của nó. Cụ thể trong Hiến pháp 1980, bên cạnh việc quy định những chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, Hiến pháp đã dành hẳn 03 điều (4,9&10) quy định về vị trí cũng như vai trò của chúng trong hệ thống chính trị. Cụ thể điều 4 – Hiến pháp 1980 quy định:
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong và bộ tham mưu chiến đấu của giai cấp công nhân Việt Nam, được vũ trang bằng học thuyết Mác - Lênin, là lực lượng duy nhất lãnh đạo Nhà nước, lãnh đạo xã hội; là nhân tố chủ yếu quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam.
Đảng tồn tại và phấn đấu vì lợi ích của giai cấp công nhân và nhân dân Việt Nam.
Các tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp”
Còn tại điều 9 – Hiến pháp 1980 quy định:
“Mặt trận Tổ quốc Việt Nam - bao gồm các chính đảng, Tổng công đoàn Việt Nam, tổ chức liên hiệp nông dân tập thể Việt Nam, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh, Hội liên hiệp phụ nữ Việt Nam và các thành viên khác của Mặt trận - là chỗ dựa vững chắc của Nhà nước.
Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, giáo dục và động viên nhân dân đề cao ý thức làm chủ tập thể, ra sức thi đua xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc.”
Điều 10 – Hiến pháp 1980 quy định:
“Tổng công đoàn Việt Nam là tổ chức quần chúng rộng lớn nhất của giai cấp công nhân Việt Nam, là trường học chủ nghĩa cộng sản, trường học quản lý kinh tế, quản lý Nhà nước.
Trong phạm vi chức năng của mình, công đoàn tham gia công việc Nhà nước và kiểm tra hoạt động của cơ quan Nhà nước, tham gia quản lý xí nghiệp; giáo dục công nhân, viên chức; tổ chức phong trào thi đua xã hội chủ nghĩa; cùng với cơ quan Nhà nước chăm lo đời sống và bảo đảm quyền lợi của công nhân, viên chức.”
Như vậy chúng ta thấy trong Hiến pháp 1980 đã quy định rất rõ về vị trí, vai trò cũng như chức năng của các bộ phận hợp thành khác của hệ thống chính trị bên cạnh nhà nước.
Hiến pháp 1992 (được sửa đổi bổ sung ngày 21/12/2001) – Hiến pháp của thời kỳ đổi mới và hội nhập, một lần nữa đã khẳng định tầm quan trọng của hệ thống chính trị Việt Nam trong mọi hoạt động của nhà nước và xã hội. Hiến pháp cũng đã có những quy định cụ thể và rõ ràng vè vai trò, nhiệm vụ của từng bộ phận hợp thành của hệ thống trong cscs điều luật cụ thể như điều 4; 9; 10…. Và theo quy định của Hiến pháp 1992, cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác, thì hệ thống chính trị Việt Nam bao gồm ba bộ phận hợp thành đó là: Đảng cộng sản Việt Nam; Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam; Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên mặt trận. Mỗi bộ phận hợp thành của hệ thống đều có những nhiệm vụ, quyền hạnh cũng như những đặc trưng của nó cụ thể như sau:

Thứ nhất: Đối với Đảng cộng sản Việt Nam:
Đảng cộng sản là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, nằm trong hệ thống chính trị nhưng đảng là hạt nhân của hệ thống đó.
Việc xây dựng một xã hội không có người bóc lột người; một xã hội thực sự công bằng, dân chủ văn minh không thể không đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản vì:…
Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không những là một thực tế khách quan, mà nó còn được thể chế hoá vào trong nội dung Hiến pháp . Điều 4 – Hiến pháp 1992 khẳng định: “Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác - Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh”
Nội dung cơ bản của sự lãnh đạo của đảng đối với Nhà nước đã được vạch ra tại các kỳ đại hội của Đảng, được thể hiện thông qua các nghị quyết, bao gồm các mặt cơ bản sau:
+. Đảng đề ra đường lối chủ trương chính sách lớn, định hướng cho sự phát triển của toàn xã hội trên tất cả các lĩnh vực trong từng thời kỳ, giai đoạn nhất định.
+. Đảng vạch ra phương hướng và những nguyên tắc cơ bản nhằm xây dựng một bộ máy Nhà nước làm việc thực sự có hiệu quả, một bộ máy Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân
+. Đảng phát hiện, bồi dưỡng, lựa chọn những Đảng viên ưu tú và những người ngoài Đảng có phẩm chất và năng lực giới thiệu với cơ quan Nhà nước để thông qua cơ chế bầu cử, bổ nhiệm của Nhà nước bố trí vào công tác trong các cơ quan Nhà nước.
+. Đảng giáo dục Đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương mẫu tập hợp quần chúng, giáo dục, động viên họ tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội; ủng hộ và tích cực thực hiện những đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, chấp hành tốt pháp luật của Nhà nước.
+. Đảng kiểm tra Đảng viên và các tổ chức của Đảng trong các cơ quan, tổ chức Nhà nước trong việc chấp hành và tổ chức thực hiện đường lối, chính sách, các nghị quyết của Đảng. Đồng thời theo dõi hoạt động của các cơ quan Nhà nước để phát hiện những sai lầm, lệch lạc để kịp thời chỉ đạo, uốn nắn. Tiến hành tổng kết rút kinh nghiệm để không ngừng bổ sung và hoàn thiện đường lối chính sách của Đảng trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội.
+. Tuy nhiên sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước chỉ là sự lãnh đạo chính trị mang tính định hướng, tạo điều kiện để Nhà nước có thể độc lập tổ chức bộ máy quản lý điều hành bằng những công cụ, biện pháp của Nhà nước
+. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước ở nước ta được ghi nhận trong đạo luật cơ bản của Nhà nước; còn ở các nước tư bản thì không có nước nào ghi nhận.
+. Chính nhờ có sự lãnh đạo nhất quán của Đảng, vì vậy hệ thống chính trị của nhà nước ta rất ổn định (được đánh giá là một trong ít quốc gia có hệ thống chính trị ổn định nhất trên thế giới – Pháp : trong vòng 12 năm, từ năm 1946(1958 “ thời đệ tứ cộng hoà” đã thay đổi Hiến pháp 26 lần).
+. Tuy nhiên cơ chế Đảng lãnh đạo bên cạnh những ưu việt của nó vẫn còn bộc lộ ít nhiều khiếm khuyết cần phải khắc phục. Như lời phát biểu của nguyên Tổng bí thư Đõ Mười tại Hội Nghị ban chấp hành trung ương Đảng khóa VII:
“ Trong điều kiện Đảng cầm quyền, nhiều Đảng viên được cử vào các cương vị khác nhau trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể từ TW( cơ sở. Được trao quyền những nhất thiết không được lạm quyền, hết lòng phục vụ, mang lại lợi ích cho nhân dân, làm người đầy tớ trung thành của nhân dân, tuyệt đối không được quan cách, hách dịch, cửa quyền, ức hiếp dân, hà lạm công quỹ, tham ô, lãng phí tiền bạc của dân”
Thứ hai: Đối với nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
Nhà nước có một vị trí quan trọng trong hệ thống chính trị. Nhà nước giữ vị trí trung tâm (Trụ cột) của hệ thống chính trị vì quyền lực chính trị luôn được thể hiện một cách tập trung nhất thông qua quyền lực Nhà nước. Tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị luôn phải dựa trên cơ sở pháp luật do Nhà nước ban hành. Nhà nước là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị, là công cụ để thực hiện quyền lực nhân dân, giữ gìn trật tự kỷ cương và bảo đảm công bằng xã hội.
Vai trò to lớn của nhà nước không phải xuất phát từ sự áp đặt chủ quan mà xuất phát từ những cơ sở, điều kiện sau đây của nhà nước:
+. Nhà nước là đại diện chính thức cho toàn xã hội, có cơ sở xã hội rộng lớn để triển khai thực hiện các chính sách, pháp luật của nhà nước. Nhà nước có hệ thống các cơ quan đại diện rộng lớn từ trung ương đến địa phương, do nhân dân bầu nên, quyết định đối với hệ thống các cơ quan nhà nước còn lại. Mọi cá nhân trên lãnh thổ quốc gia đều chịu sự quản lý, tác động của nhà nước bằng các quy định pháp luật.
Nhà nước là chủ thể của quyền lực chính trị, công cụ chủ yếu để thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân, có bộ máy làm chức năng quản lý xã hội, thực hiện các biện pháp cưỡng chế khác khi thấy cần thiết.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, bằng hêï thống pháp luật, các đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước được thực hiện một cách thống nhất. Kết hợp với các phương tiện điều chỉnh xã hội khác, đặc biệt là đạo đức pháp luật giữ vai trò hàng đầu trong quản lý xã hội vì sự ổn định, trâït tự và phát triển của đất nước.
Nhà nước có chủ quyền tối cao trong đối nội và đối ngoại. Có bộ máy quyền lực và sức mạnh để bảo đảm thực hiện quyền lực chính trị và bảo vệ chế độ chính trị của Nhà nước. Trong hệ thống chính trị nhà nước là tổ chức duy nhất có quyền tham gia với tư cách là chủ thể của công pháp quốc tế.
Nhà nước là chủ sở hữu đối với những tư liệu quan trọng nhất. Nhà nước nắm trong tay nguồn cơ sở vật chất, tài chính to lớn, đảm bảo thực hiện các chức năng nhà nước, tạo điều kiện cho các tổ chức chính trị xã hội.
Tất cả những diều kiện, cơ sở trên thể hiện ưu thế, sức mạnh và vai trò của nhà nước đã khẳng định vị trí được biệt củ nhà nước trong hệ thống chính trị Việt Nam: nhà nước giữ vị trí trung tâm, trụ cột, là công cụ hùng mạnh của hệ thống chính trị.

Thứ ba: Đối với Mặt trận tổ quốc và các tổ chức thành viên mặt trận.
Điều 9 – Hiến pháp 1992 quy định:
“ Mặt trận tổ quốc Việt Nam là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, các tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo và người Việt nam định cư ở nước ngoài.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân. Mặt trận phát huy truyền thống đoàn kết toàn dân, tăng cường sự nhất trí về chính trị và tinh thần trong nhân dân, tham gia xây dựng và củng cố chính quyền nhân dân, cùng Nhà nước chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, động viên nhân dân thực hiện quyền làm chủ, nghiêm chỉnh thi hành Hiến pháp và pháp luật, giám sát hoạt động của cơ quan Nhà nước, đại biểu dân cử và cán bộ, viên chức Nhà nước.
Nhà nước tạo điều kiện để Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên hoạt động có hiệu quả.”
Trong hệ thống chính trị nước ta, Mặt trận tổ quốc và các thành viên của mặt trận là cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, có những nhiệm vụ quan trọng sau:
+. Mặt trận tổ quốc và các thành viên của nó tham gia vào việc hình thành ra các cơ quan nhà nước.
( Mặt trận tổ quốc chủ trì hội nghị hiệp thương với các tổ chức xã hội khác để giới thiệu những người ra ứng cử vào Quốc Hội và HĐND.
“Hội nghị hiệp thương lần thứ nhất ở Trung ương do Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tổ chức chậm nhất là bảy mươi lăm ngày trước ngày bầu cử, thành phần gồm Đoàn Chủ tịch Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, đại diện Ban lãnh đạo các tổ chức thành viên của Mặt trận.
Hội nghị hiệp thương thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người của cơ quan, tổ chức, đơn vị ở Trung ương được bầu làm đại biểu Quốc hội trên cơ sở dự kiến lần thứ nhất do Uỷ ban thường vụ Quốc hội gửi đến. Đại diện Hội đồng bầu cử, Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Chính phủ được mời dự Hội nghị này.
Biên bản Hội nghị hiệp thương phải ghi rõ thành phần, số lượng người tham dự, diễn biến, kết quả của Hội nghị và được gửi ngay đến Uỷ ban thường vụ Quốc hội và Hội đồng bầu cử.” (Đ 30 – Luật Bầu cử Quốc Hội)
“Chậm nhất là bảy mươi ngày trước ngày bầu cử, Ban thường trực Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cấp bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân tổ chức hội nghị gồm đại diện các tổ chức thành viên để hiệp thương thoả thuận về cơ cấu, thành phần và số lượng người được đề cử của các cơ quan Nhà nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và đơn vị vũ trang nhân dân đóng tại địa phương”. ( Đ 28 – Luật bầu cử HĐND).
’ Đại diện MTTQ và các tổ chức xã hội khác trong mặt trận là những thành viên trong các tổ chức bầu cử như tổ bầu cử, ban bầu cử, hội đồng bầu cử.
’ Có quyền đề nghị các cơ quan quyền lực Nhà nước bãi miễn các đại biểu không xứng đáng
+. Có quyền tham gia vào các hoạt động xây dựng pháp luật.
’ Có quyền trình các dự án Luật trước Quốc Hội, Pháp lệnh trước Ủy ban thường vụ Quốc Hội ( Tổng công đoàn; Đoàn thanh niên CSHCM…). Ví dụ: Đ5 Luật Công đoàn quy định:
“1- Trong phạm vi các vấn đề có liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động, Tổng liên đoàn lao động Việt Nam có quyền trình dự án luật, pháp lệnh ra trước Quốc hội và Hội đồng Nhà nước.
2- Công đoàn tham gia với cơ quan Nhà nước xây dựng pháp luật, chính sách, chế độ về lao động, tiền lương, bảo hộ lao động và các chính sách xã hội khác liên quan trực tiếp đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động.”…
+. Tham gia vào việc quản lý Nhà nước, kiểm tra, giám sát các hoạt động của các cơ quan nhà nước. Ví dụ: Đ2 – Luật Công đoàn quy định:
“1- Công đoàn đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; có trách nhiệm tham gia với Nhà nước phát triển sản xuất, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của người lao động.
2- Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia quản lý cơ quan, đơn vị, tổ chức, quản lý kinh tế - xã hội, quản lý Nhà nước; trong phạm vi chức năng của mình, thực hiện quyền kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, đơn vị, tổ chức theo quy định của pháp luật.
3- Công đoàn có trách nhiệm tổ chức, giáo dục, động viên người lao động phát huy vai trò làm chủ đất nước, thực hiện nghĩa vụ công dân, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.”
+. Ngoài các nhiệm vụ quan trọng như đã nêu trên, mặt trận TQ và các tổ chức thành viên còn tham gia tuyên truyền – giáo dục công dân ý thức chấp hành pháp luật, đấu tranh bảo vệ pháp luật, các quyền tự do, dân chủ của công dân. “Công đoàn đại diện và tổ chức người lao động tham gia với Nhà nước xây dựng và thực hiện chương trình phát triển kinh tế - xã hội, chính sách, cơ chế quản lý kinh tế, chủ trương, chính sách liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động”… ( Đ4 – Luật Công đoàn 1990)

Tóm lại: Trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta – các tổ chức xã hội đóng một vai trò quan trọng. Cùng với các cơ quan quyền lực trong bộ máy nhà nước, các tổ chức xã hội là công cụ quan trọng để nhân dân lao động thực hiện quyền làm chủ của mình. Cùng với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội tạo ra sức mạnh tổng hợp để nhân dân ta xây dựng một cuộc sống hạnh phúc, một xã hội phồn vinh.

Một số gợi ý tự học; chủ đề thuyết trình môn Luật Hiến pháp

Chương I: Khoa học Luật Nhà nước và Ngành luật Nhà nước
Phần 1: Câu hỏi nghiên cứu tự học
1. Tìm hiểu về đối tượng nghiên cứu của khoa học Luật nhà nước, từ đó chỉ rõ mục tiêu của hoạt động nghiên cứu này.
2. Mối quan hệ giữa khoa học Luật nhà nước với các ngành khoa học pháp lý khác.
3. Hãy nêu những cơ sở lý luận của khoa học luật Nhà nước.
4. Tìm hiểu về đối tượng điều chỉnh của ngành Luật nhà nước ( các quan hệ xã hội được ngành luật điều chỉnh)
5. Nêu các phương pháp điều chỉnh của ngành Luật nhà nước . Tại sao ngành luật này lại sử dụng các phương pháp điều chỉnh đó?
6. Các điều kiện để trở thành chủ thể của quan hệ pháp luật ngành luật nhà nước. Tại sao lại nói “ nhân dân” và “ Đại biểu Quốc hội; Đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” là chủ thể đặc biệt của quan hệ pháp luật Luật nhà nước?
7. Nêu và phân tích các đặc điểm của quy phạm pháp luật ngành luật Nhà nước.
8. Khách thể của quan hệ pháp luật Luật Nhà nước.
9. Tại sao nói Luật nhà nước là ngành luật chủ đạo trong hệ thống pháp luật Việt Nam?.
10. Tại sao nói Hiến pháp là nguồn cơ bản của Luật Nhà nước

Phần 2: Câu hỏi nhận định ( các nhận định sau đúng hay sai? Tại sao?)
1. Vấn đề tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước là đối tượng nghiên cứu duy nhất của ngành luật Nhà nước?
2. Các phương pháp điều chỉnh được ngành Luật nhà nước sử dụng là những phương pháp đặc thù?
3. Phương pháp điều chỉnh “ xác lập, định hướng” là phương pháp duy nhất được ngành luật nhà nước sử dụng?
4. Các quy phạm pháp luật của ngành luật nhà nước đều không đủ 3 bộ phận cấu thành.
5. Những người là đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp” chỉ tham gia vào quan hệ pháp luật của ngành luật nhà nước.
6. Các văn bản chứa đựng quy phạm pháp luật của ngành luật nhà nước đều có thể trở thành nguồn của ngành luật nhà nước.
7. Các tác phẩm kinh điển, các bài viết , quan điểm của các nhà lãnh đạo Đảng và nhà nước là nguồn quan trọng của Luật nhà nước.
8. Khách thể của các quan hệ pháp luật Luật nhà nước là những khách thể quan trọng nhất.
9. Đối tượng điều chỉnh của ngành luật nhà nước là những quan hệ xã hội cơ bản và quan trọng nhất.
10. Các chủ thể khi tham gia vào quan hệ pháp luật Luật nhà nước đều bình đẳng với nhau về quyền lợi và nghĩa vụ.
11. Các tổ chức xã hội được thành lập theo đúng những quy định của pháp luật đều là chủ thể của các quan hệ pháp luật ngành luật nhà nước
12. Vấn đề tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước chỉ được điều chỉnh bởi các quy phạm của ngành luật Nhà nước.

Phần 3. Câu hỏi thuyết trình nhóm.
Luật nhà nước một ngành luật cơ bản trong hệ thống pháp luật của mỗi quốc gia.
Chương 2: HIẾN PHÁP
· Lịch sử lập hiến.
Phần 1. Câu hỏi nghiên cứu tự học
1. Các nguyên nhân cơ bản dẫn đến sự ra đời của Hiến pháp
2. Phân loại Hiến pháp và các tiêu trí để phân loại Hiến pháp (cho ví dụ)
3. Hoàn cảnh ra đời các văn bản “tiền Hiến pháp” trên thế giới.
4. Hiến pháp một loại văn bản hạn chế quyền lực nhà nước.
5. Bàn về tinh thần luật pháp (De l’esprit des lois) của Montesquieu và cơ chế phân công, phân nhiệm trong tổ chức bộ máy nhà nước ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.[1]
6. Nội dung thuyết khế ước xã hội của Rousseau trong Bàn về khế ước xã hội (Du contrat social).[2]
7. Các giai đoạn phát triển của Hiến pháp trong xã hội tư sản
8. Các đặc trưng của Hiến pháp
9. Hiến pháp xã hội chủ nghĩa, sự ra đời và phát triển
10. Hiến pháp không thành văn và giá trị của nó trong lịch sử lập hiến thế giới.
11. Tổ chức nhà nước và vấn đề Hiến pháp
12. Những điểm khác biệt cơ bản giữa Hiến pháp xã hội chủ nghĩa và Hiến pháp tư sản.
13. Chế độ bảo hiến và các mô hình bảo hiến hiện nay trên thế giới.
14. Hiến pháp và sự ra đời của nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở khu vực Đông nam á.
15. Sự ảnh hưởng của các trào lưu dân chủ trên thế giới tới sự xuất hiện của các tư tưởng về lập hiến ở Việt Nam.
16. Nội dung quan điểm “ Ỷ Pháp cầu tiến bộ” của Phan Chu Trinh và tác động của nó đến việc hình thành các quan điểm về lập hiến của tầng lớp tiểu tư sản ở Việt Nam trước tháng 8/1945.
17. Nội dung cơ bản, hoàn cảnh ra đời của các bản Hiến pháp Việt Nam trong lịch sử.
18. Tư tưởng xuyên suốt trong lịch sử lập hiến Việt Nam.
Phần 2. Câu hỏi nhận định( các nhận định sau đúng hay sai? Tại sao?)
1. Nội dung ban đầu của giai cấp tư sản trong khẩu hiệu lập hiến là : Đánh đổ sự thống trị của giai cấp phong kiến, thành lập nhà nước cộng hòa tư sản.
2. Văn bản có tính “ hiến chương” đầu tiên trên thế giới là văn bản quy định về quyền và nghĩa vụ của các đơn vị hành chính ở Anh.
3. Tất cả các bản Hiến pháp cổ điển đều là Hiến pháp không thành văn.
4. Hiến pháp luôn được thông qua bởi Quốc hội lập hiến.
5. Theo học thuyết phân chia quyền lực của Montesquieu thì cành quyền lực hành pháp luôn là một cành quyền lực có “ thực quyền”.
6. Các bản hiến pháp trên thế giới luôn được coi là đạo luật cơ bản của nhà nước.
7. Việc giai cấp tư sản ban hành Hiến pháp sau khi đã giành được quyền lực chính trị đã bảo đảm được quyền lợi của giai cấp tư sản.
8. Việc trước cách mạng tháng 8/1945 ở Việt Nam chưa thể có Hiến pháp là do chúng ta chưa có độc lập tự do.
9. Hiến pháp 1946 là bản Hiến pháp xã hội chủ nghĩa đầu tiên ở khu vực Đông nam á.
10. Theo quy định của Hiến pháp 1946 thì Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hòa có quyền miễn trừ tư pháp tuyệt đối.
11. Hiến pháp 1959 là bản hiến pháp có số lượng cương điều ít nhất trong các bản hiến pháp Việt Nam và Hiến pháp 1992 là bản hiến pháp có số lượng chương điều nhiều nhất.
12. Nhiệm kỳ của Nghị viện trong hiến pháp 1946 bằng với nhiệm kỳ của Chủ tịch nước.
Phần 3. Câu hỏi thuyết trình nhóm.
1. Học thuyết phân chia quyền lực và sự ảnh hưởng của chúng đến nội dung các Hiến pháp tư sản.
2. Chính thể Nhà nước trong hiến pháp 1946 sự sáng tạo tài tình của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
3. Hạn chế quyền lực nhà nước, lý do của sự ra đời Hiến pháp.

- Chế độ chính trị
Phần 1. Câu hỏi nghiên cứu tự học.
1. Chế độ chính trị theo quy định của Hiến pháp hiện hành
2. Đặc điểm của nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
3. Đặc điểm của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
4. Vai trò lãnh đạo của Đảng qua các bản Hiến pháp
5. Vị trí, vai trò của mặt trận tổ quốc trong hệ thống chính trị Việt Nam.
Phần 2. Câu hỏi nhận định (trả lời đúng sai và giải thích)
1. Chế độ chính trị dân chủ chỉ có ở các nhà nước xã hội chủ nghĩa.
2. Chế độ chính trị là một chế định pháp luật được đề ra để giải quyết vấn đề quyền lực nhà nước.
3. Chế độ chính trị có hai loại đó là: Chế độ chính trị dân chủ và chế độ chính trị phản dân chủ.
4. Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân là bản chất xuyên suốt của nhà nước Việt Nam qua các thời kỳ.
5. Quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân có nghĩa là tất cả quyền lực nhà nước đều tập trung và thống nhất vào nhân dân.
6. Đảng cộng sản Việt Nam là bộ phận lãnh đạo hệ thống chính trị Việt Nam.
7. Mặt trận tổ quốc Việt Nam có quyền quyết định về cơ cấu, số lượng đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân các cấp.
8. Mặt trận tổ quốc Việt Nam có quyền trình các kiến nghị về luật ra trước Quốc hội.
9. Các tổ chức thành viên của mặt trận đều có quyền tham gia vào hoạt động hình thành ra các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
Phần 3. Câu hỏi thuyết trình nhóm.
1. Vai trò, vị trí của hệ thống chính trị Việt Nam qua các bản Hiến pháp. Những biện pháp chủ yếu để ncao vai trò của hệ thống trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
2. Đổi mới sự lãnh đạo của Đảng trong hệ thống chính trị - một biện pháp quan trọng để tăng cường hiệu quả hoạt động của toàn hệ thống.
[1] Montesquieu - Bàn về tinh thần luật pháp (Bản dịch của Hoàng Thanh Đạm – NXB Tư pháp 2006)
[2] Russeau – Bàn về khế ước xã hội – NXB Thành phố Hồ Chí Minh 2001

CÂU HỎI TỰ HỌC MÔN LUẬT HIẾN PHÁP

1. Tại sao Khoa học Luật Hiến pháp là môn khoa học pháp lý chuyên ngành?
2. Phân tích đối tượng nghiên cứu của Khoa học luật hiến pháp.
3. Phân tích đối tượng điều chỉnh của Ngành luật hiến pháp.
4. Nguồn của ngành luật hiến pháp.
5. Phân tích các đặc điểm của quy phạm pháp luật hiến pháp.
6. Phân tích các đặc điểm của quan hệ pháp luật hiến pháp.
7. Phân tích các đặc điểm của Hiến pháp.
8. Tại sao Nhà nước chủ nô và phong kiến chưa có Hiến pháp?
9. Tại sao trước Cách mạng tháng 8 năm 1945 ở Việt Nam chưa có Hiến pháp?
10. Trình bày hoàn cảnh ra đời, tính chất, nhiệm vụ của Hiến pháp 1946.
11. Trình bày hoàn cảnh ra đời, tính chất, nhiệm vụ của Hiến pháp 1959.
12. Trình bày hoàn cảnh ra đời, tính chất, nhiệm vụ của Hiến pháp 1980.
13. Trình bày hoàn cảnh ra đời, tính chất, nhiệm vụ của Hiến pháp 1992.
14. Phân tích nội dung quyền dân tộc cơ bản trong Điều 1 Hiến pháp 1992.
15. Phân tích ý nghĩa của việc quy định vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với Nhà nước và xã hội trong Điều 4 Hiến pháp 1992.
16. Phân tích các hình thức thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội.
17. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hệ thống chính trị theo quy định của Hiến pháp hiện hành năm 1992.
18. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong quá trình hình thành cơ quan đại diện (Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp).
19. Vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam trong hoạt động lập pháp, lập quy.
20. Phân tích quy định: "Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa" (Điều 15 Hiến pháp 1992 (sửa đổi).
21. Phân tích nội dung của chế độ sở hữu toàn dân?
22. Phân tích nội dung của chế độ sở hữu tập thể?
23. Phân tích nội dung của chế độ sở hữu tư nhân?
24. Phân tích chính sách của Nhà nước đối với thành phần kinh tế Nhà nước theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
25. Phân tích chính sách của Nhà nước đối với thành phần kinh tế tập thể theo Hiến pháp hiện hành năm 1992?
26. Phân tích chính sách của Nhà nước đối với thành phần kinh tế cá thể, tiểu chủ, tư bản tư nhân theo Hiến pháp hiện hành năm 1992?
27. So sánh sở hữu toàn dân với sở hữu tập thể.
28. Phân tích nguyên tắc: Nhà nước thống nhất quản lý nền kinh tế quốc dân bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách. (Điều 26 Hiến pháp 1992)
29. Phân tích mục đích, chính sách phát triển nền giáo dục Việt Nam theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
30. Phân tích mục đích, chính sách phát triển khoa học, công nghệ theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
31. Khái niệm quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
32. Phân tích nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc tôn trọng quyền con người (Điều 50 Hiến pháp 1992).
33. Phân tích nội dung, ý nghĩa của nguyên tắc tính thống nhất giữa quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
34. Phân tích nguyên tắc mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật trong chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
35. Phân tích nguyên tắc tính hiện thực trong chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
36. Phân tích nguyên tắc tính nhân đạo xã hội chủ nghĩa trong chế định quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân.
37. Phân tích nội dung "Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị với cơ quan Nhà nước, biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân." (Điều 53 Hiến pháp 1992)
38. Phân tích Điều 57 Hiến pháp 1992 " Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật."
39. Phân tích Điều 68 Hiến pháp 1992 "Công dân có quyền tự do đi lại và cư trú ở trong nước, có quyền ra nước ngoài và từ nước ngoài về nước theo quy định của pháp luật."
40. Phân tích quy định: "Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin…" (Điều 69 Hiến pháp 1992)
41. Phân tích quy định: "… Công dân có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật."(Điều 69 Hiến pháp 1992)
42. Phân tích nội dung quyền khiếu nại, tố cáo của công dân theo Hiến pháp 1992.
43. Phân tích nguyên tắc bầu cử phổ thông.
44. Phân tích nguyên tắc bầu cử trực tiếp.
45. Phân tích nguyên tắc bầu cử bình đẳng.
46. Phân tích nguyên tắc bỏ phiếu kín trong bầu cử.
47. Phân tích những điều kiện để thực hiện quyền bầu cử của công dân theo pháp luật hiện hành.
48. Phân tích những điều kiện để thực hiện quyền ứng cử của công dân theo pháp luật hiện hành.
49. Phân tích những điều kiện để một công dân trúng cử đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
50. Phân tích quy định về bãi nhiệm đại biểu theo pháp luật hiện hành.
51. Phân tích nguyên tắc: Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân trong tổ chức và hoạt động của Bộ máy nhà nước.
52. Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
53. Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
54. Phân tích nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và hoạt động của Toà án nhân dân theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
55. Phân tích nguyên tắc bình đẳng và đoàn kết dân tộc trong tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
56. Phân tích quy định: "Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân" (Điều 83 Hiến pháp 1992).
57. Phân tích quy định: "Quốc hội là cơ quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam" (Điều 83 Hiến pháp 1992).
58. Phân tích chức năng lập hiến và lập pháp của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
59. Phân tích chức năng giám sát tối cao của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
60. Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước bằng những hình thức nào?
61. Phân tích hình thức hoạt động của Quốc hội thông qua kỳ họp của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
62. Phân tích hình thức hoạt động của Quốc hội thông qua Uỷ ban thường vụ Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
63. Phân tích hình thức hoạt động của Hội đồng dân tộc và các Uỷ ban của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
64. Trình bày cơ cấu tổ chức của Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
65. Phân tích hình thức hoạt động của Quốc hội thông qua hoạt động của đại biểu Quốc hội và Đoàn đại biểu Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
66. Trình bày các quy định của Hiến pháp năm 1946 về Chủ tịch nước.
67. Trình bày các quy định của Hiến pháp năm 1959 về Chủ tịch nước.
68. Vị trí, vai trò và trật tự hình thành Chủ tịch nước theo Hiến pháp hiện hành năm 1992.
69. Phân tích mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Quốc hội theo pháp luật hiện hành.
70. Phân tích mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
71. Phân tích mối quan hệ giữa Chủ tịch nước với Toà án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành.
72. Phân tích vị trí, tính chất, chức năng của Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
73. Phân tích cơ cấu tổ chức và trật tự hình thành của Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
74. Phân tích hình thức hoạt động của Chính phủ thông qua phiên họp Chính phủ theo pháp luật hiện hành.
75. Phân tích hình thức hoạt động của Chính phủ thông qua hoạt động của Thủ tướng theo pháp luật hiện hành.
76. Phân tích vị trí, tính chất, chức năng của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
77. Hội đồng nhân dân có phải là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất ở địa phương không? Tại sao?
78. Các hình thức thực hiện quyền giám sát của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
79. Trình bày cơ cấu tổ chức của Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
80. Phân tích hình thức hoạt động của Hội đồng nhân dân thông qua kỳ họp Hội đồng nhân dân.
81. Trình bày tổ chức và hoạt động của Thường trực Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
82. Phân tích hoạt động của đại biểu Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
83. Trình bày tổ chức và hoạt động của các ban thuộc Hội đồng nhân dân theo pháp luật hiện hành.
84. Phân tích vị trí, tính chất, chức năng của Uỷ ban nhân dân theo pháp luật hiện hành.
85. Trình bày cơ cấu tổ chức và trật tự hình thành Uỷ ban nhân dân theo pháp luật hiện hành.
86. Phân tích hình thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân thông qua phiên họp Uỷ ban nhân dân.
87. Phân tích hình thức hoạt động của Uỷ ban nhân dân thông qua hoạt động của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân.
88. Phân tích các mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với Uỷ ban nhân dân cùng cấp theo pháp luật hiện hành.
89. Phân tích các mối quan hệ giữa Hội đồng nhân dân với các cơ quan nhà nước cùng cấp ở địa phương theo pháp luật hiện hành.
90. Phân tích nguyên tắc bổ nhiệm thẩm phán theo quy định pháp luật hiện hành.
91. Phân tích chức năng xét xử của Toà án.
92. Phân tích nguyên tắc: "Khi xét xử, Thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật" (Điều 130 Hiến pháp 1992)
93. Phân tích nguyên tắc: "Toà án xét xử công khai, trừ trường hợp do luật định..." (Điều 131 Hiến pháp 1992).
94. Phân tích nguyên tắc: "Toà án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số" (Điều 131 Hiến pháp 1992).
95. Phân tích nguyên tắc: Công dân có quyền dùng tiếng nói, chữ viết của dân tộc mình trước Toà án.
96. Phân tích chức năng của Viện kiểm sát nhân dân theo pháp luật hiện hành.
97. Trình bày tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao theo pháp luật hiện hành.
98. Trình bày tiêu chuẩn của Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân địa phương theo pháp luật hiện hành.
99. Trình bày tiêu chuẩn của Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao theo pháp luật hiện hành.
100. Trình bày tiêu chuẩn của Thẩm phán Toà án nhân dân địa phương theo pháp luật hiện hành.