Thứ Ba, 4 tháng 8, 2009

Tìm hiểu nguyên tắc "quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp,

Tìm hiểu nguyên tắc "quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp"
GS, TS. Trần Ngọc Đường

Trong mục IV Hệ thống chính trị và vai trò lãnh đạo của Đảng, khi đề cập đến vấn đề nhà nước, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (năm 1991) viết: "Nhà nước Việt Nam thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân công rành mạch ba quyền đó" (1). Tiếp tục tổng kết thực tiễn, hoàn thiện và phát triển quan điểm nói trên của Cương lĩnh trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng khẳng định: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp" (2). Đến năm 2001, với sáng kiến lập pháp của Ban chấp hành trung ương Đảng khóa IX, Quốc hội khóa X đã tiến hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 1992, trong đó đã thể chế các quan điểm nói trên của Đảng thành một trong những nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam. Đây là một trong những quan điểm và là nguyên tắc cơ bản chỉ đạo công cuộc cải cách, xây dựng bộ máy nhà nước ta trong thời kỳ đổi mới; thể hiện sự phát triển mới về nhận thức lý luận của Đảng và nhà nước ta trong quá trình tổ chức và thực hiện quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.Tuy nhiên, là nguyên tắc mới, nên ý nghĩa và nội dung của nó không phải đã được nhận thức thống nhất, vận dụng đầy đủ và đúng đắn vào thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Để góp phần làm sáng tỏ về phương diện lý luận nguyên tắc hiến định nói trên, trong bài viết này, xin bàn về hai vấn đề:
- Một là: Quan niệm về quyền lực nhà nước là thống nhất;
- Hai là: Tại sao phải có sự phân công giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp; ý nghĩa và nội dung của phân công, phối hợp ba quyền như thế nào?
1. Quan niệm về quyền lực nhà nước là thống nhất
Về vấn đề này, cho đến nay, trong nhận thức lý luận ở nước ta mới chỉ dừng lại ở quan niệm rằng, quyền lực nhà nước thuộc về một giai cấp hoặc liên minh giai cấp. Xét về bản chất giai cấp thì quyền lực nhà nước bao giờ cũng thống nhất trong tay giai cấp cầm quyền. ở nước ta, quyền lực nhà nước thuộc về giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của Đảng, về cơ bản lợi ích giữa các giai cấp là phù hợp với nhau. Vì vậy, quyền lực nhà nước là thống nhất, không phân chia. Nhấn mạnh tính thống nhất của quyền lực nhà nước là để khẳng định trong nhà nước ta không có sự phân chia quyền lực nhà nước; là để phủ nhận và đối lập với nguyên tắc phân quyền trong các nhà nước tư sản.Tuy nhiên, đây là vấn đề có tính lý luận và thực tiễn sâu sắc, cần phải đi sâu tìm hiểu và vận dụng nó một cách đầy đủ và nhất quán trong thực tiễn tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Các khía cạnh của vấn đề về quyền lực nhà nước là thống nhất như: Thế nào là thống nhất quyền lực nhà nước? Quyền lực nhà nước thống nhất ở đâu? ý nghĩa của quyền lực nhà nước là thống nhất trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước như thế nào? Các khía cạnh này đều cần được làm sáng tỏ về phương diện lý luận và nhận thức. Hiện nay, đang có các nhận thức khác nhau trên các khía cạnh này.- Có một số người cho rằng, quyền lực nhà nước là thống nhất, nhưng sự thống nhất đó tập trung vào Quốc hội. Bởi vì nhân dân là chủ thể của quyền lực nhà nước, nhưng lại không thực hiện được quyền lực nhà nước một cách trực tiếp, nên đã trao quyền cho cơ quan đại diện cao nhất do mình bầu ra là Quốc hội. Do vậy, Quốc hội được Hiến pháp xác nhận là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Và, với vị trí pháp lý đó, những người này đã ngộ nhận rằng Quốc hội là cơ quan có toàn quyền, là cơ quan cấp trên của các quyền hành pháp và tư pháp. Thật ra, đây là quan điểm tập quyền đã trở thành nguyên tắc tổ chức quyền lực nhà nước trong nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp, mà thể hiện rõ nét nhất trong các quy định của Hiến pháp năm 1980. Nguyên tắc này có ưu điểm là bảo đảm cho quyền lực nhà nước tập trung, quyết định và thực thi quyền lực nhanh chóng, thống nhất. Tuy nhiên, nguyên tắc này cũng bộc lộ nhiều hạn chế. Đó là thiếu sự phân định phạm vi quyền lực nhà nước giữa các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, nhất là thiếu sự kiểm soát quyền lực nhà nước đối với quyền lập pháp. Hơn nữa, nguyên tắc này phủ nhận tính độc lập tương đối giữa các quyền nên đã hạn chế tính năng động, hiệu quả và trách nhiệm của mỗi quyền. Nhân dân và xã hội không có cơ sở để đánh giá chất lượng hoạt động của quyền lực nhà nước. Do vậy, trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN, tập quyền tiềm ẩn nguy cơ lạm dụng quyền lực nhà nước từ phía các cơ quan nhà nước được nhân dân trao quyền. - Một số khác lại cho rằng, trong nhà nước kiểu mới như nhà nước ta, giai cấp công nhân và nhân dân lao động dưới sự lãnh đạo của một đảng, ngày càng thống nhất về lợi ích, trong nội bộ không có sự phân chia thành phe phái đối lập như trong nhà nước tư sản, nên thống nhất quyền lực nhà nước là yếu tố duy nhất giữ vai trò quyết định trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Quan niệm này đề cao tính thống nhất của quyền lực nhà nước, phủ nhận, xem thường hoặc hạ thấp vai trò của phân công, phân nhiệm rành mạch quyền lực nhà nước. Thực chất quan niệm này cũng không khác gì quan điểm nói trên. Hậu quả của nó cũng là thủ tiêu trách nhiệm trong lao động quyền lực nhà nước, hạ thấp vai trò của dân chủ và vô hiệu hóa chức năng giám sát của nhân dân đối với quyền lực nhà nước, là mảnh đất màu mỡ cho lạm dụng quyền lực nhà nước của nhân dân.
- Quan niệm đúng đắn hơn cả là quyền lực nhà nước thống nhất nơi nhân dân. Tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể tối cao của quyền lực nhà nước. Nhân dân trao quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, cho Chính phủ và cho các cơ quan tư pháp. Chứ không phải nhân dân trao hết thảy quyền lực nhà nước của mình cho Quốc hội, rồi đến lượt mình, Quốc hội lại trao quyền cho Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Theo Điều 84 của Hiến pháp năm 1992, nhân dân chỉ trao cho Quốc hội ba nhóm quyền hạn và nhiệm vụ: quyền hạn và nhiệm vụ về lập hiến, lập pháp; quyền hạn và nhiệm vụ về giám sát tối cao; quyền hạn và nhiệm vụ về quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước. Quan niệm đó hoàn toàn phù hợp với dân chủ XHCN. Bởi vì, dân chủ XHCN đòi hỏi nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước không chỉ bằng hình thức dân chủ đại diện mà còn bằng cả dân chủ trực tiếp, trong đó có trưng cầu ý dân, có như vậy, nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mới đúng, mới bảo đảm thực hiện đầy đủ, không hình thức. Như vậy, thống nhất quyền lực nhà nước được hiểu là toàn bộ quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, tập trung thống nhất ở nhân dân chứ không phải thuộc về Quốc hội. Quan niệm đó có ý nghĩa lý luận và thực tiễn thiết thực. Trước hết, điều đó chỉ ra rằng, quyền lực nhà nước dẫu là quyền lập pháp, hành pháp hay tư pháp đều có chung một nguồn gốc thống nhất là nhân dân, đều do nhân dân ủy quyền, giao quyền. Do vậy, nói quyền lực nhà nước là thống nhất trước tiên là sự thống nhất ở mục tiêu chính trị, nội dung chính trị của nhà nước. Cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp tuy có chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau nhưng đều thống nhất với nhau ở mục tiêu chính trị chung là xây dựng một nhà nước "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" như Đảng ta đã chỉ ra.
Quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất như nói trên là cách thức tổ chức quyền lực nhà nước đề cao trách nhiệm trước nhân dân, hạn chế sự dựa dẫm, ỷ lại trong việc thực hiện quyền hạn và nhiệm vụ mà nhân dân đã ủy quyền. Đó cũng là cơ sở để không có chỗ cho các yếu tố cực đoan, đối lập, thiếu trách nhiệm trong mối quan hệ giữa các quyền, nhất là giữa quyền lập pháp và quyền hành pháp. Đồng thời, đó cũng là điều kiện để hình thành cơ chế kiểm soát, nhận xét, đánh giá chất lượng và hiệu quả hoạt động của các quyền từ bên trong tổ chức quyền lực nhà nước cũng như từ bên ngoài là nhân dân.Tóm lại, quan niệm quyền lực nhà nước là thống nhất và tập trung ở nhân dân, chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước là quan niệm đúng, có ý nghĩa chỉ đạo tổ chức quyền lực nhà nước trong điều kiện xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân. Mọi biểu hiện xa rời quan điểm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân đều dẫn đến tổ chức quyền lực nhà nước kém hiệu quả.2. Quan niệm về phân công, phối hợp giữa ba quyền lập pháp, hành pháp và tư phápNhư đã nói ở phần trên, trong chế độ dân chủ và pháp quyền thì quyền lực nhà nước không phải là quyền lực tự có của nhà nước mà quyền lực được nhân dân ủy quyền, nhân dân giao quyền. Vì quyền lực nhà nước là của nhân dân, nhưng nhân dân lại không trực tiếp thực hiện quyền lực nhà nước của mình mà lại giao cho người khác là nhà nước, nên tất yếu nảy sinh đòi hỏi chính đáng và tự nhiên phải kiểm soát quyền lực nhà nước. Mặt khác, khi ủy quyền cho nhà nước, quyền lực nhà nước lại thường vận động theo xu hướng tự phủ định mình, trở thành đối lập với chính mình lúc ban đầu (từ của nhân dân là số đông chuyển thành số ít của một nhóm người hoặc của một người). C.Mác gọi hiện tượng này là sự tha hóa của quyền lực nhà nước. Quyền lực nhà nước là của nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước, suy cho cùng, là giao cho những con người cụ thể thực thi. Mà con người thì "luôn luôn chịu sự ảnh hưởng của các loại tình cảm và dục vọng đối với các hành động của con người. Điều cũng khiến cho lý tính đôi khi bị chìm khuất" (3). Đặc biệt là khi lý tính bị chi phối bởi các dục vọng, thói quen hay tình cảm thì khả năng sai lầm trọng việc thực thi quyền lực nhà nước càng lớn. Hơn nữa, với bản tính vị kỷ, con người thường "bị điều khiển bởi khát vọng, trong đó khát vọng về quyền lực vừa là mục tiêu, vừa là công cụ để đạt các khát vọng khác" (4). Với đặc điểm đó của con người, không thể khẳng định người được ủy quyền luôn luôn làm đúng, làm đủ những gì mà nhân dân đã ủy quyền. Vì vậy, kiểm soát quyền lực nhà nước là một nhu cầu khách quan từ phía người ủy quyền đối với người được ủy quyền. Hơn thế nữa, quyền lực nhà nước không phải là một đại lượng có thể cân, đong, đo, đếm được một cách rạch ròi, vì nó là một thể thống nhất, như nói ở phần trên. Điều đó lại càng đòi hỏi phải kiểm soát quyền lực nhà nước để hạn chế sự lộng quyền, lạm quyền, mâu thuẫn chồng chéo hoặc trùng lắp trong quá trình thực thi quyền lực nhà nước giữa các cơ quan nhà nước, hạn chế hiệu lực và hiệu quả thực thi quyền lực nhà nước được nhân dân ủy quyền.
Xuất phát từ các đòi hỏi khách quan nói trên, quyền lực nhà nước thường được lượng hóa, phân định thành các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Sự lượng hóa này là để giao cho các cơ quan nhà nước khác nhau, thay mặt nhân dân thực hiện. Trong thực tiễn ở nước ta, cũng như các nước, quyền lập pháp được giao cho Quốc hội hay Nghị viện, quyền hành pháp được giao Chính phủ, quyền tư pháp được giao cho Tòa án. Sự phân định các quyền như vậy là điều kiện cơ bản để nhân dân giao quyền mà không bị lạm quyền, nhân dân kiểm soát và đánh giá được hiệu lực và hiệu quả thực hiện các quyền mà mình đã giao. Đồng thời, cũng là để cho các cơ quan tương ứng được giao quyền đề cao trách nhiệm trong việc thực thi quyền lực nhà nước và tự kiểm tra việc thực hiện quyền lực nhà nước được giao của mình.Quyền lập pháp là quyền đại diện cho nhân dân thể hiện ý chí chung của quốc gia. Những người được nhân dân trao cho quyền này là những người do phổ thông đầu phiếu bầu ra hợp thành cơ quan gọi là Quốc hội hay Nghị viện. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là đại diện cho nhân dân, bảo đảm cho ý chí chung của nhân dân và được thể hiện trong các đạo luật mà mình là cơ quan duy nhất được nhân dân giao quyền biểu quyết thông qua luật. Quyền biểu quyết thông qua luật là quyền lập pháp, chứ không phải là quyền đưa ra các mô hình xử sự cho xã hội. Vì vậy, quyền lập pháp không đồng nghĩa với quyền làm ra luật. Đồng thời, là người thay mặt nhân dân giám sát tối cao mọi hoạt động của nhà nước, nhất là hoạt động thực hiện quyền hành pháp, để góp phần giúp cho các quyền mà nhân dân giao cho các cơ quan nhà nước không bị lạm quyền, lộng quyền hay bị tha hóa.Quyền hành pháp là quyền tổ chức thực hiện ý chí chung của quốc gia do Chính phủ đảm trách. Thuộc tính cơ bản, xuyên suốt mọi hoạt động của quyền này là quản lý nhà nước (hay cai trị) mà thực chất là tổ chức thực hiện pháp luật để bảo đảm an ninh, an toàn và phát triển xã hội. Không có một Chính phủ quản lý nhà nước hữu hiệu không thể có một nhà nước giàu có, phát triển ổn định cả về mặt kinh tế lẫn mặt xã hội. Thực hiện quyền này đòi hỏi Chính phủ và các thành viên của Chính phủ phải nhanh nhạy, quyết đoán kịp thời và quyền uy tập trung thống nhất.
Quyền tư pháp là quyền xét xử, được nhân dân giao cho tòa án. Độc lập và chỉ tuân theo pháp luật là nguyên tắc xuyên suốt và cao nhất trong tổ chức thực hiện quyền này, mọi cá nhân, cơ quan, tổ chức không được phép can thiệp vào hoạt động xét xử của Tòa án. Đây thực chất là quyền bảo vệ ý chí chung của quốc gia bằng việc xét xử các hành vi vi phạm Hiến pháp, pháp luật từ phía công dân và cơ quan nhà nước. Vì vậy, bảo vệ pháp luật, công lý, tự do của công dân là trách nhiệm hàng đầu của quyền tư pháp. Mọi cơ quan, tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ tôn trọng, giữ gìn và bảo vệ tính pháp quyền và công lý trong các phán quyết của Tòa án.
Như vậy, xuất phát từ đặc điểm của quyền lực nhà nước, việc phân định thành ba quyền nói trên là một nhu cầu khách quan. Ngày nay, xu hướng phân định rành mạch ba quyền đó ngày càng được coi trọng trong tổ chức quyền lực nhà nước. Bởi vì, xã hội càng phát triển, phân công lao động càng phải chuyên môn hóa cao để phát huy hiệu quả. Đồng thời, thực tiễn xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở nước ta chỉ ra rằng, việc phân định rành mạch ba quyền là cách thức tốt nhất để phát huy vai trò của nhà nước trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước.
Tuy nhiên, như đã nói ở trên, trong nhà nước ta quyền lực nhà nước là thống nhất. Đó là sự thống nhất về mục tiêu chính trị chung. Vì vậy, việc phân định quyền lực nhà nước không chứa đựng và bao quát cả việc phân lập mục tiêu chính trị chung của quyền lực nhà nước. Do vậy, mặc dù có sự phân định ba quyền nhưng cả ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp không hoàn toàn tách biệt nhau mà "ràng buộc lẫn nhau", phối hợp với nhau, hoạt động một cách nhịp nhàng trên cơ sở làm đúng, làm đủ nhiệm vụ. quyền hạn mà nhân dân giao cho mỗi quyền được Hiến pháp - đạo luật gốc của nhà nước và xã hội quy định. Mục đích của việc phân công quyền lực nhà nước là để nhằm kiểm soát quyền lực nhà nước, bảo đảm cho tính pháp quyền của nhà nước và phát huy dân chủ XHCN, chứ không phải là để thỏa hiệp hay chia rẽ quyền lực nhà nước giữa các quyền. ý nghĩa của sự phân công quyền lực nhà nước là để phân định nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan trọng bộ máy nhà nước, để nhà nước hoạt động có hiệu lực và hiệu quả, quyền lực nhà nước ngày càng thực sự là quyền lực của nhân dân.Tóm lại, quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp là nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước ta, đã được thực tiễn kiểm nghiệm đúng đắn. Nghĩ rằng, nguyên tắc này cần được bổ sung và khẳng định trong Cương lĩnh của Đảng ta trong thời gian tới. Tuy nhiên, để nhấn mạnh và làm rõ hơn vai trò của kiểm soát quyền lực nhà nước từ phía nhân dân và từ bên trong của chính bản thân quyền lực nhà nước, cần bổ sung thêm cụm từ "kiểm soát" vào nội dung của nguyên tắc - Nguyên tắc trên viết thành: "Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công, phối hợp và "kiểm soát" giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp".
(1) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (ĐH VI, VII, VIII, IX). NXB Chính trị QG. H.2005, tr.328.
(2) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới (ĐH VI, VII, VIII, IX). NXB Chính trị QG. H.2005, tr.510.
(3) Jon Mills. Luận về tự do, NXB chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. 2005, tr.131.
(4) Ngô Huy Đức. Tư tưởng chính trị phương Tây cận, hiện đại. So sánh, phân tích nội dung và sự ảnh hưởng của chúng đối với đời sống chính trị. Báo cáo tổng quan KX10 -10-HN-2005.
(Bài đăng trên tạp chí Nghiên cứu lập pháp số 139-140-tháng-1-2009 ngày 20/01/2009)